Family trees - Họ tộc

Những lời di huấn của cha ông trong gia phả 

Tìm trong các gia phả, thấy những lời di huấn của các bậc tiền bối để lại cho con cháu thăm thẳm tình người. Một đoạn trong bản chúc thư xưa của một dòng họ: "... Nguyên vợ chồng chúng tôi kết duyên cầm sắt, vui đạo xướng tuỳ, sinh hạ được tất cả 12 người con, nay còn lại 9 đứa. Vì phải cần cù khó nhọc nuôi nấng bầy con đông đúc, nên chúng tôi không tự lực tạo mãi được thêm vườn đất, ruộng nương mà chỉ nhờ vào của cải ruộng đất của ông bà, cha mẹ để lại.

Nay tuổi hạc càng cao, để giữ gìn môn phong rạng rỡ, gia đạo yên vui, trước khi an giấc ngàn thu, phải tính việc dặn con mọi lẽ. Với 9 đứa con, rồi đây sẽ có thêm cháu chắt nhưng ruộng đất thì có chừng mực. Tục ngữ có câu: "Để vậy thì giàu, chia nhau thì khó". Cha mong muốn rằng sau khi cha khuất bóng các con phải giữ tình "cốt nhục tương thân" giữ nghĩa "thúc túc tương trợ". Các con đừng tham lam vì tiền, đừng nghe lời thị phi xúi giục mà sinh sự kiện thưa, đem tên tuổi ông bà, cha mẹ đến cửa tụng đình, như thế là các con làm tủi nhục cho vong linh của ông bà, cha mẹ ở nơi chín suối.

Trên đất của nhà mình có nhà của một số bà con. Các con nhớ câu: "Tiên ngụ, cửu cư" (ngụ trước, ở lâu), khi nào họ tự ý dời nhà thì họ trả đất lại cho nhà mình. Nếu họ bán nhà thì người chủ mới vẫn ở như người chủ cũ. Các con không được đuổi họ thình lình phải giữ lòng "Tín nghĩa thuỷ chung", không nên sinh lòng tham lam manh tâm tranh tụng. Các con nên nhớ câu "có phước có phần". Nhà mình không có phần "hương hoả", cho nên những ngày giỗ trong gia đình các con tuỳ tiện đơm cúng riêng tại nhà, hoặc cùng nhau lại đơm cúng thì càng quý lắm! Nhưng các con phải biết: "tuỳ gia phong kiệm", "giàu làm kép, hẹp làm đơn". Lễ nghĩa quý ở chỗ lòng thành, chớ không phải chỗ ít hay nhiều.

Về khoản sở nhà ngói ba căn, hai chái và nhà bếp hiện cha con mình đang ở đây, trong các con, đứa nào thiếu nhà thì được ở, bất luận trai hay gái. Còn trong cuộc sống, anh chị em cần biết nhường nhịn nhau, đứa làm ăn khá, giúp đỡ đứa nghèo túng, đừng làm đoạn tình cốt nhục, trái với gia đạo cương thường... Sau cùng, cha nhắc nhở và khuyên bảo các con phải nhớ ít nhất là tu dưỡng ba đức tính: Cần, Nhẫn, Hoà...". Và, người viết chúc thư cũng không quên giải nghĩa cho con hiểu thế nào là: Cần, Nhẫn, Hoà. Qua lời văn của bản chúc thư, thấy được tâm trạng lo lắng về việc tranh chấp tài sản có thể xảy ra khi người cha qua đời. Người cha đã dặn dò các con trong việc ăn ở, tu thân tích đức, giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp trong gia tộc, trong xóm giềng... Tôi cũng đã đọc được một văn tự chia đất của một dòng họ cách đây hơn một trăm năm. Dù cách hành văn theo lối cũ nhưng văn tự rất khúc chiết, rõ ràng. Con cháu nghe theo không có sự tranh chấp, giữa các thế hệ ăn ở hoà thuận nhường nhịn với nhau suốt 4 đời. Phải chăng đó là điều họ tin và làm theo vào văn tự thiêng liêng của ông bà để lại.

Hầu hết trong di huấn của các dòng họ là những lời dạy con cháu ăn ở hiền hoà, có hiếu với cha mẹ, có ích cho đời... Lời di huấn giản dị nhưng nhiều thế hệ con cháu nghe, làm và biết phát huy trong cuộc sống, nhiều người đã thành đạt.

http://www.nguoicaotuoi.org.vn/

Các luồng di cư chính

Thống kê theo các bản gia phả ghi chép của các gia đình còn giữ được và theo tài liệu đăng khoa và thăng quan chức được ghi chép lại bởi tư liệu nhà nước, một số nhóm chính có thể liệt kê lại như sau: 

Có một số họ hiện thời do đổi tên từ họ khác để tránh bị truy giết. 

Về tổng thể luồng di cư của các nhánh nhỏ từ các nhánh lớn là do cuộc nội chiến đổi ngôi, hoặc theo lệnh vua đi khai hoang miền biển, miền nam mới, hoặc di  cư theo vua rời kinh đô: 

Mới đầu chủ yếu di cư trong vùng châu thổ sông Hồng

Sau đó, rồi vào Ái Châu (Thanh Hóa) trong quá trình mở rộng nước Việt về phía nam. 

Sau đó theo các cuộc đổi ngôi loạn lạc lại có luồng di chuyển từ phía nam ra phía bắc (đa số từ Thanh Hóa trở lại vùng Sơn Nam Hạ (tức là các tỉnh Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình ngày nay))

và quá trình tiếp tục mở rộng phía nam vào miền Nam Trung bộ (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,… mạnh nhất là vào thời nhà Lê (thế kỷ thứ XV).  

Họ Khúc- notes

Sự kiện năm 905, họ Khúc dựng nghiệp trong lịch sử dân tộc, cho tới ngày nay đã hơn 11 thế kỷ. Trong điều kiện thực tế, tư liệu giúp chúng ta nghiên cứu những sự kiện diễn ra trong lịch sử như trường hợp họ Khúc ở thế kỷ 10 là rất hiếm. 


Văn bia lưu trong từ đường họ Phạm có hai mặt (kích thước cao 120cm x rộng 80cm x dày 15cm), mặt trước có tên Hậu thần nhị vị bi ký (Văn bia khắc ghi hậu thần hai vị), niên đại tạo dựng là Hoàng triều Chính Hòa nhị niên, tức năm Tân Dậu (1681).

Mặt bia thứ nhất, Hậu thần nhị vị bi ký, có khắc ghi bà vợ thứ - trắc thất của Phạm Tướng công là Khúc Thị Cừu:


Dịch nghĩa: Bà vợ thứ (vợ thứ hai của Phạm Tướng công) là Khúc Thị Cừu, vốn quê ở bản huyện, xã Hoài Cái. Cha của bà Cừu đã nhập tịch vào xã Bồ Dương, và bà Cừu sinh được ba người con trai tên là: (Phạm) Tiến Bảng, Tiến Triều, Tiến Học.

Quê gốc của bà Khúc Thị Cừu ở đâu? Trở lại trong chính sử(2), các tư liệu đều chép họ Khúc quê gốc ở Hồng Châu(3) (ngày nay thuộc thôn Cúc Bồ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương). Vậy, có thể nói thôn Cúc Bồ là nơi phát tích của họ Khúc. Thôn Bồ Dương, nơi có văn bia Hậu thần nhị vị bi ký chúng tôi đang giới thiệu chỉ cách thôn Cúc Bồ khoảng 1,5km về phía Đông Bắc. Trong văn bia đã ghi bà Khúc Thị Cừu người bản huyện (tức huyện Vĩnh Lại)(4), xã Hoài Cái mà không phải thuộc thôn Cúc Bồ, xã Kiến Quốc ngày nay. Xem trong sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX(5), chúng tôi không thấy xã Hoài Cái, chỉ có xãQuán Khái thuộc tổng An Lạc (tổng An Lạc có 7 xã), huyện Vĩnh Lại. Cũng theo sách này, thôn Bồ Dương, xã Bồ Dương thuộc thuộc tổng Bồ Dương (tổng này có 10 xã), huyện Vĩnh Lại. Còn thôn Cúc Bồ thuộc tổng Can Trì (tổng này có 7 xã), huyên Tứ Kỳ. Về tên gọi Hoài CáiQuán Khái có nhiều điểm giống nhau, chữ hoài () và chữ quán () về tự dạng có những nét chung, song chữ cái () có hai âm đọc là: cáikhái. Vậy trong trường hợp này, chúng tôi cho rằng xã Hoài Cái, quê hương của bà Khúc Thị Cừu cũng có thể đọc là xãQuán Khái. Nếu đồng ý với suy luận trên, chúng ta có kết luận là quê của bà Khúc Thị Cừu thuộc xã Quán Khái, tổng An Lạc, huyện Vĩnh Lại (trong văn bia có khắc ghi địa giới hành chính của thôn Bồ Dương lệ vào Hạ Hồng phủ, Vĩnh Lại huyện). Ngày nay, tại huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng cũng có làng Quán Khái (gần với Quán Khái là thôn Từ Lâm, huyện Vĩnh Bảo có một nhánh họ Khúc khá lớn đang sinh sống và còn lưu được gia phả về nguồn gốc phát tích). Trong nghiên cứu của tác giả Khúc Thừa Đại về Bước đầu tìm hiểu về họ Khúc ở Việt Nam có nêu: “Trên đất Hạ Hồng xưa, nay là Ninh Giang, Vĩnh Bảo còn một số nơi có họ Khúc như họ Khúc ở thôn Kim Chuế (Ninh Giang), thôn Quán Khái, xã Vĩnh Long, Vĩnh Bảo...”(6). Như vậy, Hoài Cái/Quán Khái là quê hương của bà Khúc Thị Cừu - vợ thứ của Phạm Tướng công, một trong số đó đã gửi tiền, ruộng để hậu thần. Song điều chúng tôi cũng muốn tìm hiểu thêm ở đây là sau khi lấy Phạm Tướng công, bố bà Khúc Thị Cừu lại nhập tịch vào thôn Bồ Dương.


Suy nghĩ về gia phả

GIA PHẢ - NGUỒN CẢM XÚC DẠT DÀO VỀ ĐẠO LÝ UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN

Mai Xuân Hải

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Hai tiếng “Gia phả” đối với người Việt Nam ta xưa nay thật vô cùng thiêng liêng. Bởi gia phả chính là bộ sử sống của gia đình, của dòng họ, mà ở đó tổ tiên, ông bà các đời của chúng ta, những người liên tục truyền nối từ thuở vô thủy tới nay đã mang đến cho ta mạng sống, cho ta được làm người đã hiện lên rõ rệt...

Xưa kia, bất kể dòng họ lớn nhỏ nào cũng thường có gia phả. Dòng họ nhỏ đôi khi chỉ vào mươi trang ghi chép vắn tắt họ, tên, ngày giỗ, phần mộ của các cụ. Dòng họ lớn thì gia phả viết rất quy củ, có phép tắc, có đủ lời tựa, lời dẫn, phàm lệ, đủ cả phần chính phả, ngoại phả. Ngoài việc ghi chép họ tên, thụy hiệu, ngày sinh ngày mất, phần mộ, chức tước, hành trạng, công lao lúc sống của các cụ, gia phả còn ghi chép cả thơ văn, bi ký, hoành phi, câu đối, văn khấn, nghi thức cúng giỗ, điều lệ dòng họ, về việc xây dựng từ đường, ruộng họ, cùng các đạo sắc phong, chế cáo ban tặng của nhà vua. Phần nhiều là gia phả viết tay, đôi khi những dòng họ có điều kiện kinh tế và có ý thức cao, gia phả còn được khắc in.

Nhưng dù dài ngắn mặc lòng, gia phả vẫn là những bộ sử riêng của gia đình, dòng họ viết về những bậc tiền bối với tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, “phục bản phản thủy”, “thận chung truy viễn”, nên nó thường tràn đầy một tình cảm thiêng liêng, một trách nhiệm, một bổn phận cao cả đối với các lớp tiền bối và cả các lớp con cháu sau này, một thái độ thành kính, biết ơn công lao sinh thành, gây dựng, vun đắp của tổ tiên, nên có sức lôi cuốn, có sức cảm hóa mạnh mẽ các lớp cháu con.

Đọc gia phả chúng ta sẽ thu hoạch được rất nhiều tri thức bổ ích. Chúng ta sẽ hiểu sâu hơn về các mặt sinh hoạt xã hội, phong tục tập quán, những sự kiện lịch sử mà nhiều khi không được ghi chép trong chính sử của triều đình. Rồi còn văn chương, thơ phú, triết lý... Quả thật có những cuốn giả thực sự có tính chất “bách khoa toàn thư” về dòng họ, về xã hội quá khứ. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi không đi sâu vào khía cạnh nhận thức của gia phả, chúng tôi chỉ xin trích dịch một vài đoạn văn, một vài mẩu chuyện trong một số cuốn gia phả, nói lên những suy nghĩ và đạo đức, đạo lý làm người của ông cha, thân thiết gần gũi với chúng ta, mà ngày nay, những nét đẹp đạo đức ấy, đã từ lâu được người Việt Nam ta chấp nhận, trở thành đạo đức truyền thống, tâm linh dân tộc, rất giàu cảm xúc uống nước nhớ nguồn, được các gia đình của mọi dòng họ Việt Nam vẫn thường dạy dỗ con cháu, đặng góp vào việc đánh thức những cảm xúc hướng thiện trong chúng ta trong cuộc hành trình trở về cội nguồn đang diễn ra sôi nổi hôm nay.

Trước hết, chúng ta hãy bắt đầu từ những trang của lời tựa, mà ở đây chúng ta thường bắt gặp những suy nghĩ dung dị về đạo đức làm con, đạo làm người, về mục đích của việc biên soạn gia phả.

Bài tựa gia phả họ Tăng ở thôn Nghiêm Thắng, huyện Đô Lương, Nghệ An viết: “Cây có nghìn cành vạn lá là nhờ có gốc. Nước có nghìn suối vạn dòng là nhờ có nguồn. Con người ta họ hàng con cháu đông đảo, ai mà không bắt nguồn từ tổ tiên?”.

Bài tựa gia phả họ Nguyễn Nhân ở làng Xuân Dương, huyện Thanh Chương, Nghệ An viết: “Có người hỏi tôi viết gia phả để làm gì? Tôi đáp: Đạo Càn thành nam, đạo Khôn thành nữ, con người nhờ đó được sinh ra. Vì thế con người ta sinh ra phải kính trọng cha mẹ, tôn kính tổ tông. Lúc bắt đầu là từ một gốc, sau chia ra nhiều nhánh, rồi nối tiếp nghìn vạn con cháu. Bởi lẽ đó, nếu không chép phả thì con cháu các đời sau làm sao mà biết được?”.

Bài tựa gia phả họ Đỗ thôn Đại Định, xã Cao Đài huyện Vĩnh Lạc, Vĩnh Phú viết: “Phép làm gia phả là chi chép nguồn gốc tổ tông, như cành có gốc, như nước có nguồn, có vật nào mà lại không như vậy? Làm con cháu nếu không biết họ hàng tông tộc bắt nguồn từ đâu, khi đối đáp với người ngoài thì dụng dạ rỗng tuếch, chẳng biết nói gì, hoặc nói về tổ tiên thì ú ớ cái lưỡi. Kế thừa máu thịt của ông cha mà như thế, phỏng có hổ thẹn không?”.

Bài tựa gia phả họ Mai ở Phương Liệt viết: “Kính nghĩ các cụ tổ tiên ta phúc đức đầy đặn, ăn ở hiếu hạnh. Cụ thủy tổ ta sinh ra ở đất Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay), nảy nở điềm lành ở vùng sông Nhĩ (sông Hồng). Trải qua các đời thứ hai, thứ ba, thứ tưu, thứ năm nối nhau kế thừa, có người văn học tiếng tăm, có người đạo đức ngời sáng. Được như vậy là do tổ tiên gây dựng từ lâu đời. Làm con cháu mà không biết ăn ở đầy đặn, không biết báo đáp công ơn tổ tiên thì còn ra quái gì nữa! Kinh Thi nói: “Tưởng nhớ tổ tiên, tu dưỡng đạo đức, một niềm tu dưỡng, giữ lấy nếp nhà” làm cho sự nghiệp của tiền nhân được vẻ vang, làm gì có con đường nào khác nữa đâu. Những người khéo đọc gia phả hãy nên suy ngẫm về điều đó...”.

Ngày nay chúng ta đọc bất cứ bài tựa nào của bất cứ một cuốn gia phả nào của người Việt Nam chúng ta, chúng ta đều được đọc những dòng chữ, những suy nghĩ về ông bà tổ tiên thành kính, trân trọng như thế.

Đấy là ở bài tựa. Còn về nội dung thì sao? Trong rất nhiều cuốn gia phả ngoài phần chép tên tuổi, ngày giỗ, phần mộ, còn có những dòng miêu tả hành trạng, tính cách, điều ăn nết ở rất sống động, đọc lên, chúng ta có cảm giác như các cụ “canh tường như tại”(1), đang sống cùng cháu con, đang dạy dỗ cháu con, chính bằng cuộc sống của mình.

Gia phả họ Bùi xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Đông (nay là Hà Tây) viết về cụ tổ đời thứ 10 là cụ Ôn Mục Đoan Khiết công như sau: “Tính cụ nghiêm thẳng, trị nhà cần kiệm có phép, thờ phụng cha mẹ rất hiếu thảo, giữ mình kính cẩn, đãi người chân thành, đối với hàng xóm thì hòa mục lễ nghĩa, tương thân tương ái, không ai chê trách gì được...”. Khi viết về cụ bà, gia phả chép càng cảm động hơn: “... Cụ bà hiệu là Từ Tường nhụ nhân, tính nết cần kiệm tần tảo, rất mực thương yêu chồng con. Thuở còn hàn vi, mỗi khi đi chợ về, cụ đều giành ra vài đồng tiền kẽm để mua giấy bút cho con đi học. Cụ Khắc Trai công chăm chỉ học hành, ngày sau thành đạt, phần nhiều là nhờ công lao dậy dỗ của cụ vậy. Sau này cụ Khắc Trai công làm quan ở viện Hàn lâm, thường xót xa về nỗi mẹ già đã qua đời, không được phụng dưỡng. Đến ngày giỗ mẹ, cụ xúc động làm một bài thơ rằng:

“Quan cao nơi viện Hàn lâm,

Cảm thương nhớ mẹ, ướt đầm lệ sa.

Giờ đây tuổi hạc đã già,

Ba mươi năm trước, xót xa nhớ người.

Công danh vinh hiển ở đời,

Cũng là ơn mẹ, khôn nguôi báo đền..

Ấy nhờ phúc ấm tổ tiên,

Quế lan tươi tốt, vững bền dài xa..”

Gia phả họ Lê ỡ xã Phù Xá, huyện Kim Hoa, phù Đa Phúc, tỉnh Bắc Ninh, là một vọng tộc lớn ở Bắc Ninh xưa, gia phả viết rất kỹ càng đầy đủ. Đặc biệt những dòng viết về công tích đạo đức của tiền nhân đọc lên rất xúc động. Như đoạn viết về cụ tổ đời thứ 8 rằng: “... Khi cụ làm xã trưởng, cụ xử sự công bằng, được dân xã tin yêu... Vả lại, bấy giờ gặp lúc lắm gian nan, dân tình đói kém, phàm gặp người nào có tai ách, cụ đều rủ lòng chu cấp, mọi người đều được hưởng ơn trạch. Sau khi cụ mất, hai xã tưởng nhớ công đức, đều xin được thờ cụ ở trong đình... Kìa như họ nhà ta đối với dân chúng hai xã Đông Đoài có ơn trạch rất lớn, là bắt đầu từ cụ tằng tổ Nghiêm Quang hầu vậy. Cụ tổ ta nối theo, xây dựng nhà tế đường, sửa sang hương lệ, sắp đặt kỷ cương, đời đời tuân theo, cũng là một việc làm to tát cho dân. Nghìn năm hương hỏa vẫn còn trường tồn nơi miếu xã, mà nhà ta nối đời hưng thịnh. Đó thực là nhờ các cụ liệt tổ nhà ta để lại ơn trạch đến vô cùng vậy”.

Cũng trong cuốn gia phả họ Lê ở Phù Xá này, đọc đến đoạn văn bia, đọc bài minh họa sau đây, con cháu nào mà không tự hào chính đáng về tiên tổ: “Kìa như cụ chỉ là người ở nơi thôn dã cuộc đời gặp nhiều cảnh ngộ vất vả gian nan, mà sừng sững hơn hẳn bọn lưu tục, ưa văn học, thích bố thí, lấy đạo làm việc thiện để lại cho con cháu, làm vinh hiển cho gia tộc, xóm làng. Khi mất lại được vua ban cáo mệnh phong tặng, vẻ vang cả nơi chín suối. Hai xã Đông Đoài chịu ơn và tưởng nhớ công đức cụ, đã phối thờ cụ ở trong đình, để mọi người tới đó kỷ niệm cụ không bao giờ mất vậy.

Khám thờ bốn thước, khu mộ tốt tươi, dựng tấm bia to, khắc sâu công đức.

Có bài minh ca ngợi rằng:

“Núi Sóc Sơn cao vút,

Sông Nguyệt Bảo trong xanh.

Nhà họ Lê ta ấy

Hàm chứa bao tinh anh.

Cụ đội ơn tiên tổ,

Gia sản giầu thêm nhanh.

Một đời làm việc thiện,

Con nối nghiệp cha anh.

Mọc lên cây ngọc quý,

Được triều đình tôn vinh.

Hiển hách tên tuổi ấy.

Còn mãi với trời xanh.

Bia đá này ghi khắc,

Không mờ mòn đức âm.

Núi Thái Sơn sừng sững,

Ngưỡng mộ mãi ngàn năm”.

Gia phả (bản khắc in) họ Đỗ ở làng Chương Dương, huyện Thường Tín tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây), những tấm gương sáng ngời về đạo đức của các cụ còn được viết xen kẽ thành những mẩu chuyện nho nhỏ, rất giầu ý nghĩa giáo dục và giá trị văn chương, đọc lên con cháu nhớ mãi. Xin nêu ra đây vài truyện.

1. Truyện nhường ao của cụ Đoan Lương

Cụ tổ đời thứ 6 là cụ Đoan Lương (húy Tông) thi đỗ Tam trường khoa thi Hương năm Quý Mão (1723) niên hiệu Bảo Thái thứ 4, làm quan Đồng tri châu châu Lộc Bình, xứ Lạng Sơn. Khi về hưu, cụ giữ chức văn trưởng hội Tư văn ở làng. Cụ có mua một cái ao, phía đông giáp chân đê, phía tây và nam liền với cái ao của ông Trung úy Lượng, phía bắc giáp đường xóm Thượng Phúc. Nguyên phía trước nhà ông Lượng có bốn cái ao liền bờ, vuông hình chữ điền, cụ mua một cái, ông Lượng mua ba cái. Ý ông Lượng muốn mua nốt cái ao của cụ, phá bỏ bờ thành một cái ao to để thả cá và trồng sen trước cửa nhà cho đẹp. Ông Lượng có lần hỏi mua, nhưng cụ không bán, nên ông Lượng để bụng thù.

Nhân ngày cuối năm, cụ cho người lên dọn ao, cắt cỏ xung quanh bờ cao và đánh cá ăn tết. Thấy vậy ông Lượng vu cho cụ là đẽo vạc chân đê, mở rộng ao, định làm đơn thưa kiện. Có người mách với cụ, cụ bèn gọi các con đến bảo rằng: “Việc dọn ao, cắt cỏ, đánh cá là việc nhà ta làm hàng năm. Nay ông Lượng muốn mua cái ao của ta không được, bèn vu ra chuyện đẽo vạc chân đê để đi thưa kiện. Gặp được quan thanh liêm thì chẳng nói làm gì. Nhưng thời buổi kim tiền này, quan thấy kiện như kiến thấy mỡ, nén bạc đâm bạc tờ giấy. Vả lại, quan bênh quan, đồng tiền trên lẽ phải, ta dù có lý đến mấy cũng thua. Cổ nhân có câu: “Thua kiện mười bốn quan năm, được kiện mười lăm quan chẵn”, mà đã gây sự kiện cáo, hẳn sinh oán thù, một đời kiện ba đời thù, như thế phỏng có ích gì?”. Sau đó cụ bèn chủ động đến nhà ông Lượng, bảo với ông Lượng rằng: “Ông muốn mua cái ao của tôi, phá bờ thành cái ao to trước nhà, trồng sen thả cá cho đẹp thì tôi nhượng lại cho, việc gì phải thưa với kiện”. Rồi cụ đưa văn tự ao cho ông Lượng.

Về sau, sau khi ông Lượng chết, con cháu ông Lượng không chịu làm ăn, ham mê rượu chè cờ bạc, lại đem chiếc ao to ấy bán cho cháu cụ là cụ Ôn Văn đời thứ 8.

2. Sự tích ngôi mộ cụ Ôn Văn

Ngôi mộ cụ Đỗ Đình Đại (hiệu Ôn Văn) đời thứ 8 để ở gò con Nhạn, xứ đồng Mật, làng Bạch Mai, tổng Kim Liên, huyện Thọ Xương, sau là huyện Hoàn Long, Hà Nội.

Năm Tân Mão (1831) cụ Đỗ Danh Tuấn 15 tuổi lên trọ ở làng Bạch Mai để lên Hà Nội học. Ở chỗ cổng làng Bạch Mai có bà bán nước chè tươi và quà bánh cho khách bộ hành qua lại. Như thường lệ, sáng nào cụ cũng ra đấy uống bát nước chè tươi nóng hổi, hút điếu thuốc lào, rồi mới đi lên Hà Nội học.

Một hôm cụ ra quán nước đã thấy một ông lão, áo quần rách rưới lôi thôi, râu tóc bạc phơ ngồi ở trong quán. Cụ vào uống nước xong, cầm lấy cái điếu, thông bã vê thuốc, châm đóm định hút. Vừa lúc ấy ông lão giằng điếu tranh hút. Cụ vui vẻ châm lửa nhường ông lão hút trước, còn mình thông bã hút sau, sắc mặt không có tí gì là bực tức. Cách hai hôm sau, ông lão lại tranh hút như trước, nhưng cụ vẫn một niềm kính cẩn, sắc mặt không hề bực tức. Cách ba ngày sau, ông lão vẫn tranh hút như hai lần trước, cụ vẫn một niềm vui vẻ mời ông lão hút trước. Khi ông cụ đi khỏi, ông lão hỏi bà hàng rằng cậu học trò này quê quán ở đâu bà có biết không? Bà hàng bảo, tôi nghe nói cậu ở dưới phủ Thường Tín lên đây trọ học. Ông thân sinh cậu là Tri huyện, Tri phủ gì đấy. Ông lão bảo: Con nhà gia thế có khác, có phúc mới có người con như thế.

Một hôm cậu đi học về, gặp ông lão ở Cầu Dền, ông lão gọi lại và bảo cho cậu biết, rằng lão chính là thảy Địa lí đi để đất cho thiên hạ, thấy đây có ngôi đất đẹp, lão thử xem nhà nào có đức thì sẽ để cho. Lão đã thử nhiều người, chẳng ai vừa ý. Nay thấy cậu khiêm nhường, lễ nghĩa, trọng người cao tuổi, lão để ngôi đất ấy cho. Cậu về thưa với quan nhà, lên mua thửa ruộng ấy. Nhớ đến ngày 16 tháng chạp, sớm tinh sương, có đủ mặt ở đấy, lão đến cắm hương cho. Nhớ mua thêm mươi thúng gạch vụn, cát, vôi bột, để lúc lấp huyệt cần dùng đến...

Đúng hẹn sáng sớm tinh mơ ngày 16 tháng chạp, ông lão đã có mặt, cắm đất đào huyệt, đặt quan tài, phân kim ngắm hướng xong, cho lấp đất. Lúc lấp đâts còn cách mặt ruộng ba gang tay, ông lão bảo trộn đều gạch, cát, vôi bột đổ xuống dầy một gang, tưới nước nện chặt (đó gọi là đất tam hợp, sau này cho con cháu dễ nhận), sau đó đắp đất lên như ngôi mộ khác. Ông lão còn bảo, nếu muốn xây phải đợi ngoài 100 năm mới xây và đặt mộ chí được. Khi cụ Trường Ấn (bố cụ Tuấn) đưa biếu lễ vật và tiền, ông lão không nhận, chỉ lấy 1 phẩm oản, 1 quả chuối mà thôi.

Tính đến năm an táng cụ là năm Tân Mão (1831) đến năm Bính Tý (1936) cháu đời thứ 12 là cụ Đỗ Danh Doãn (hiệu Tế Xuyên) xây mộ cụ vừa đúng 105 năm, đúng như thày địa lý nói. Nếu không có đất tam hợp thì năm Canh Tý (1900) bọn thù nghịch đã đào mất mộ rồi. Thực là công việc ở đời đều bởi ông Tạo hóa định liệu trước cả, người đời chỉ biết làm theo, đến đâu biết đấy. Cứ chịu khó làm lụng, thực thà hiền lành, ắt được hưởng lộc trời cho, chỉ có sớm muộn mà thôi.

3. Truyện đào trộm ngôi mội cụ Ôn Văn ở Bạch Mai

Ngôi mộ cụ Ôn Văn an táng ở gò con Nhạn, xứu Đồng Mật, làng Bạch Mai, huyện Thọ Xương, sau là huyện Hoàn Long, Hà Nội. Năm Canh Tý (1900) ở Chương Dương có kẻ thù nghịch cho người lên đào trộm, nhưng không được. Chuyện rằng:

Tối 30 tháng Chạp năm Canh Tý (1900) trời tối như mực, lại mưa phùn gió bấc, đêm tĩnh mịch vắng vẻ. Ở cổng làng Bạch Mai có cái điếm canh, cách ngôi mộ cụ Ôn Văn chừng 100m. Trong điếm có 7, 8 người tuần phiên canh gác. Họ chung nhau mua mấy con cá rán, ít xôi, chai rượu để đến lúc giao thừa cùng nhau nâng chén mừng xuân. Chính trong lúc mấy anh em trương tuần quây quân đánh bạc làm vui, thì ngoài mộ bọn thù nghịch đang đào trộm ngôi mộ cụ. Đúng lúc ấy, chợt có con mèo ở đâu đến tha mất con cá rán, bọn tuần vội đứng lên đuổi bắt mèo. Nhưng trời tối, họ chẳng biết mèo chạy đằng nào, chỉ hô hoán lên: “Nó kia, nó kia, bắt lấy nó!” Mấy tên đào trộm mộ nghe tiếng hô hoán, tưởng lộ chuyện, vội bỏ về thẳng. Sáng hôm sau, anh em đi tuần qua đấy mới biết ngôi mộ đêm qua bị đào trộm, đất cát đang còn bừa bãi. Cụ Diên, người chủ thửa ruộng và trông nom ngôi mộ, vội cho người xuống báo ngay cho cụ Xuân Trạch biết. Cụ Xuân Trạch liền lên làm lễ điền hoàn và đắp lại ngôi mộ như cũ.

Cụ Diên thường nói: “Từ ngày tôi trông nom ngôi mộ, tôi ăn nên làm ra, con cái học hành thành đạt, nên trông nom rất cẩn thận”. Việc đào trộm mộ ở Bạch Mai có nhiều người biết. Họ bảo nhau rằng: “Đó là quan Thổ thần hóa làm mèo vào tha cá để báo cho anh em tuần phu biết, chứ có phải mèo thật đâu, vì số cá rán chẳng mất con nào cả”. Về sau chuyện mới rõ ràng, có ông Bát Hanh, người làng Chương Dương đi lính cho Pháp, được ban hàm bát phẩm, bị cụ Xuân Trạch giật mất chức Tiên chỉ, nên để tâm báo thù, cho người lên đào trộm mộ.

Sau này con trai ông Bát hanh nghèo túng, phải quay về nhờ vả cụ Danh Doãn, là cháu đời thứ 12. Thế mới biết cổ nhân nói: “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác” chẳng sai tí nào.

4. Truyện vứt thuốc phiện vào thùng phân

Cụ tổ đời thứ 9 họ Đỗ ở Chương Dương là cụ Ôn Cung, thụy là Đoan Lượng. Cụ đỗ Cử nhân năm Ất Dậu (1825) lúc 29 tuổi, sau làm quan Tri huyện Lang Tài, thăng Tri phủ Quốc Oai, rồi giữ chức Lễ khoa Cấp sự trung. Thời kỳ cụ làm việc ở Khoa đạo 7 năm, hai lần đi thanh tra ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Định, lúc về chỉ có mấy gói thuốc Bắc, có quan Bố chính Bình Định là Phan đại nhân, người làng Phù Ủng, Hải Dương là người nghiện thuốc phiện, có tặng cụ hai lọ thuốc phiện, chừng độ 30 lạng. Cụ miễn cưỡng phải nhận để yên lòng người cùng xứ, làm quan nơi xa gặp nhau. Cụ xử sự cận với nhân tình như vậy đấy.

Về nhà cụ nói dối cụ bà rằng, đó là hai lọ thuốc cao, khi nào cụ bảo mở thì mới được mở.

Một hôm cụ bà đi vắng, cụ đem hai lọ thuốc phiện đó vứt vò thùng phân. Cụ bà về biết chuyện, có phàn nàn rằng: “Hai lọ thuốc đắt tiền, giá đến hơn 300 quan, sao không bán đi chẳng được món tiền to hay sao. Tiếc quá! tiếc quá!”. Cụ bảo: “Thuốc ấy là vật giết người, làm tan nát cửa nhà, mình đã không dùng, sao nỡ tham lợi bán cho kẻ khác kiếm vài trăm quan tiền thì yên tâm sao đánh!”. Kể từ khi cụ được bổ nhiệm chức Hữu kinh lịch tỉnh Quảng Trị, đến Giám sát ngự sử đạo Thanh Hóa, hơn 15 năm, dân gian có việc thưa kiện, trước cụ lấy điều nghĩa lý hòa giải, sau mới lấy luật phát phân xử nhanh chóng, không để đọng án, kéo dài dây dưa, tốn phí thời gian đi lại, phiền nhiễu cho dân.

Đấy, gia phả viết về ông cha như thế, con cháu muôn đời sau đọc đến, ai mà không cảm động, ai mà không tự hào. Những tấm gương sáng như thế, con cháu nào mà không noi theo. Trong ngôn ngữ ta có từ “bách tính”, nghĩa là trăm họ, đồng nghĩa với từ “quốc gia”, “dân tộc”, “đất nước”. Nhiều nhà họp thành họ, nhiều họ họp thành làng, nhiều làng họp thành nước. Mọi nhà, mọi họ làm việc thiện tất sẽ có nhiều phúc khánh. Cả nước làm việc thiện, nước tất sẽ hưng vượng.

Bài viết nhỏ này chỉ xin trích dịch một số đoạn, dăm ba truyện dồi dào cảm xúc về đạo lý uống nước nhớ nguồn mà trong bất cứ một cuốn gia phả của dòng họ nào cũng đều có thể tìm thấy, những mong tiếp thêm một chút ít sức mạnh tinh thần truyền thống cho chúng ta trên con đường chấn hưng dân tộc Việt Nam ta hôm nay(2).

Chú thích:

1. Canh tường: theo sách Hậu Hán thư - Lý Cố truyện: “Sau khi vua Nghiêu chết, vua Thuấn tưởng nhớ suốt 3 năm, khi ngồi như thấy bóng vua Nghiêu ở trên tường, khi ăn như thấy bóng vua Nghiêu ở trong bát canh. Sau đó, từ này được dùng như một động từ, chỉ sự tưởng nhớ không quên.

2. Cảm ơn bạn Đỗ Diễn Hịch đã cung cấp một số tư liệu về dòng họ Đỗ ở Chương Dương, Thường Tín, Hà Tây.

Thông báo Hán Nôm học 1996 ( tr.115-128)

Giáo dục dòng họ bằng gia phả

Xưa nay, gia phả vẫn được coi là “gia bảo”. Đọc gia phả giúp hậu thế hiểu rõ nguồn cội và quan hệ huyết thống của mình, qua đó tăng thêm niềm tự hào, sự gắn kết và trách nhiệm đối với tổ tiên, dòng họ cũng như đối với đất nước, quê hương.

Trong khuôn khổ Đại hội Sách cũ lần thứ IV do Alphabooks tổ chức cuối tháng 2 vừa qua, nhiều cuốn tư liệu về hương ước làng xã, gia phả một số dòng họ lớn của Việt Nam đã được triển lãm. Tọa đàm bên lề Làng xã - Hương ước - Gia phả Việt Namcũng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà chuyên môn và công chúng.

Kết nối thế hệ

Nhắc đến dòng họ là nhắc đến gia phả. Gia phả không chỉ đơn thuần là để ghi chép tên tuổi, ngày sinh, ngày mất, công trạng, phẩm giá của người trong họ mà còn được đem ra đọc cho con cháu mỗi dịp giỗ chạp như sợi dây kết nối các thế hệ trong dòng họ. Các bạn trẻ lần đầu tiếp xúc với những cuốn gia phả, tài liệu quý như Mạc Thị gia phả, Đinh Tộc gia phả, Họ Trần ở Vân canh, Bạch Vân gia huấn, Văn hóa họ Trần, Gia tộc họ Trương, Họ Hồ ở Phú Yên… đều cảm thấy thú vị, tự hào. Đại diện dòng họ Nguyễn Lân, một trong những dòng họ nổi tiếng của Việt Nam, GS. TS. Nguyễn Lân Dũng khẳng định: “Gia phả quan trọng lắm, nhờ gia phả mà con tôi, cháu tôi rồi các thế hệ sau sẽ biết quê quán mình ở đâu, ông bà cụ tổ mình là ai, ai có họ hàng với mình và họ hàng như thế nào… Nhờ đó mà có cách chào hỏi đúng lễ nghĩa”.


Nếu như trước đây, yếu tố kinh tế quy định tốc độ phá vỡ ngôi nhà chung của dòng họ, sự chểnh mảng trong việc ghi chép, bổ sung gia phả, gia huấn thì những năm tháng gần đây, ở khắp nơi trên đất nước, vấn đề dòng họ được đặc biệt quan tâm. Gia phả được tìm lại, tiếp nối và phổ biến. Nhu cầu tình cảm đã khiến mọi người trong dòng họ năng đi lại thăm viếng nhau, những ngày họp họ hoặc giỗ tổ đều có đông con cháu tham gia. Đây là nhu cầu lành mạnh, tích cực và tất yếu. GS. TS. Nguyễn Lân Dũng cho rằng, “sự liên kết về huyết thống này rất hay, như người ta bảo một giọt máu đào hơn ao nước lã… Nhà tôi có nhiều người làm nghề y, chúng tôi vẫn thường xuyên giúp đỡ họ hàng ở quê bị đau ốm, nếu mình không chữa được thì nhờ bạn bè chuyên khoa giúp đỡ. Cho nên lập gia phả không chỉ là vấn đề khoa học xã hội mà còn có ý nghĩa để người trong họ gần gũi nhau, giúp đỡ lẫn nhau, học tập lẫn nhau để tạo nên niềm tự hào của dòng họ mình…”.

Giáo dục hậu thế

Từ trước đến nay, gia phả luôn nêu cao phẩm chất tốt đẹp của dòng họ, ưu tiên viết về truyền thống yêu nước, ghi chép về những con em được ghi nhận trong lịch sử địa phương, dân tộc. Khi khai thác gia phả, thảo gia huấn, mọi người sẽ tự hào về dòng họ mình. Tập hợp tất cả truyền thống của dòng họ, chúng ta sẽ có một bức tranh toàn cảnh về lịch sử, truyền thống dân tộc Việt Nam. Đồng thời, nếu những phẩm chất tốt đẹp của dòng họ được mọi người phát huy, coi như lẽ sống đáng tự hào của dòng họ, thì nhất định tiêu cực sẽ bị đẩy lùi. PGS. TS. Trương Sỹ Hùng, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á cho biết: “Trong lịch sử nước ta từ thời phong kiến, có những dòng họ lớn, ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tinh thần của con cháu. Đơn cử, nếu không có nền giáo dục đúng đắn và những tấm gương sáng của dòng họ thì có lẽ triều đại nhà Lê đã không thể trụ vững nhiều thế kỷ trong lịch sử dân tộc”. 

Theo GS. Vũ Khiêu, tất cả gia phả, gia huấn, di chúc được lưu giữ đến ngày nay đều nhắc nhở con em phải hiếu thảo trong gia đình, phải chăm sóc người già, giáo dục thiếu nhi, nhân hậu với xóm làng, bạn bè, không đồng lõa với kẻ bất chính, không bao che cho nhau trước pháp luật, không thiên vị nhau khi xử lý công việc chung… Do vậy, đọc gia phả là cách để hiểu về dòng họ, hiểu về một trong những yếu tố xây dựng nên văn hóa làng, văn hóa bản địa. Dù vô tình hay có ý thức, thông qua gia phả, thế hệ sau sẽ tiếp nhận được chuẩn mực giáo dục của cha ông. Đây cũng là cơ hội để mỗi cá nhân điều chỉnh cho phù hợp và hài hòa trong xã hội hiện đại, góp phần lớn vào xây dựng văn hóa dân tộc.

 Gia phả thường gồm 4 phần. Phả ký nói đến tổ quán, vị tổ phụ, quá trình hình thành và phát triển của họ tộc. Phả hệ là phần ghi chép những thành viên trong dòng họ theo thứ bậc từ cao đến thấp, từ vị tổ phụ đến con cháu đang hiện hữu. Ngoại phả là những trang viết gắn liền với họ tộc mình như việc đồng mả, chôn cất, cúng bái, ngày giỗ... Phụ khảo là những điều liên quan đến học tộc trong chiều dài lịch sử của dòng họ như đình chùa, miếu mạo, truyền thống đấu tranh của địa phương... Với những gia đình vua chúa, họ không dùng từ gia phả mà dùng từ ngọc phả, ngọc điệp...

Cẩm Vân

https://daibieunhandan.vn/van-hoa/Giao-duc-dong-ho-bang-gia-pha-i171829/ 

Đời thứ: 9 - Nhánh T.1.1.2.3.2.2.2.3



Phái:

Nam.    Con ông Trịnh Tạc và bà Thái-phi Vũ Ngọc Lễ.


Tên:

Trịnh Căn


 

Đức Tiên-thánh Chiêu-Tổ Khang-vương tên húy là Căn.


Sinh năm:

1633 


 

Sinh ngày 13 tháng 6 năm Quý-dậu (1633). Ngài là con thứ tư.


Mất năm:

1709 


 

Mất ngày 10 tháng 5, tôn-phong sách vàng là Khang-vương, tên thụy là Đông-Đoàn, miếu-hiệu là Chiêu-Tổ, tôn-lăng ở làng Lịch-thượng (huyện Yên-định).


Phối ngẫu:

 


 

Bà Hiền-phi họ Nguyễn tên húy là Ngọc-Phụng, tên thụy là Trang-Thân, người xã Quang-lãm (huyện Thanh-trì), bảo dưỡng đức Tiên-đức Tấn-quang-vương Trịnh-Bính. Mất ngày 13 tháng 3.


Bà Thục-phi họ Phạm tên húy là Ngọc-Quyển, tên thụy là Rượu-Mỹ, người làng Mỹ-cốt (huyện Lôi-Dương), con gái con Đô-đốc Lưu-quận-công Phạm Sĩ Kỳ. Sinh ra đức Lương-mục-vương Trịnh-Vịnh. Mất ngày 19 tháng 4. Lăng ở làng Phúc-hà (huyện Thụy-nguyên).


Bà Thuận-phi họ Ngô tên húy là Ngọc-Uyên, tên thụy là Rượu-Tĩnh, nguyên-quán ở xã Phượng-lịch (huyện Hoằng-hóa). Cháu ông Thân-Huân Tán-trị Công-thần hàm Thái-bảo tước Hòa-quận-công. Con gái ông Thiếu-bảo Kiêm-quận-công. Bảo-dưỡng đức Hy-Tổ Nhân-vương Trịnh-Cương: thời bấy giời gọi là đức Bảo-Mẫu. Mất ngày 12 tháng 11. Lăng ở làng Bảo-ngũ.



Năm 24 tuổi (1656), gia-phong chức Phó-đô-tướng, tước Phú-quận-công, mở dinh Tả-quốc, thống-lĩnh chư-tướng vào Nghệ-an đánh Nam-triều kiêm Trấn-thủ đất Nghệ-an, gia-thăng hàm Thái-phó. Năm 28 tuổi (1660), dựng được nhiều công to, được thăng Khâm-sai Tiết-chế thủy-bộ mọi dinh, kiêm-trưởng quyền-chính. Năm 42 tuổi (1674), công-vọng long-trọng tiến-phong chức Nguyên-súy, giữ chính nước, tước Định-nam-vương. Năm 50 tuổi (1682), đức Dương-vương Trịnh-Tạc mất, ngài lên nối nghiệp chúa. Năm 53 tuổi (1685), tiến-phong chức Đại-nguyên-súy Thống-quốc-chính Thượng-thánh Sư-phụ Thịnh-công Nhân-minh Uy-đoán Định-vương. Năm 77 tuổi (1709), ngày mất ngày 10 tháng 5.


Con giai:



Con gái:


Tại sao con người phải duy trì dòng họ?

Tại sao con người phải duy trì tộc danh, mà là tộc danh đứng về phía bố? Có ít nhất hai lý do để giải thích điều này: Trước hết là nhằm duy trì chế độ ngoại hôn, nghĩa là lấy vợ, lấy chồng không bị lẫn người nội tộc. Thứ nữa là để bảo đảm duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. 

Với cái ý thứ nhất, đây là một nhận thức đánh dấu sự trưởng thành của tư duy con người. Bởi lẽ bằng kinh nghiệm sinh tồn, con người nhận ra rằng, nếu lấy vợ, lấy chồng cùng dòng nội tộc gần đời sẽ có thể sinh ra những đứa con lại giống ốm đau bệnh tật. Như trên đã nói, việc duy trì tộc danh còn mang một ý nghĩa tâm linh đã trở thành sâu rễ bền gốc trong đời sống tinh thần người Việt, đó là việc duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Người Việt quan niệm: Con chim có tổ, con sông có nguồn, con người có tổ tiên. Nguồn gốc của tục thờ cúng tổ tiên cũng cần nhắc lại: Trước kia, có một số ý kiến cho rằng, tục thờ cúng tổ tiên bắt nguồn bên Trung Hoa. Nhưng các nhà nghiên cứu gần đây cho rằng, tục này thuộc tín ngưỡng bản địa. Chứng cớ là hiện nay khảo cứu vào tín ngưỡng, phong tục người Mường, vẫn thấy các gia đình người Mường có cách thờ cúng tổ tiên rất nguyên sơ, có từ lâu đời, không một dấu tích nào mang hơi hướng của văn hóa Hán. Người Mường và người Việt vốn cùng chung một gốc, rồi do những biến đổi lịch sử-văn hóa, nên mới tách ra thành hai dân tộc anh em. Cho nên, một trong những con đường tìm về với văn hóa bản địa của người Việt là phải tìm hiểu qua văn hóa Mường. Như vậy, việc khẳng định tục tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là của người Việt, chứ không phải tiếp nhận bên văn hóa Hán là có cơ sở.

Việc thờ cúng tổ tiên lại nằm trong một tín ngưỡng rộng hơn là thờ cúng người đã khuất. Từ ngàn xưa, người Việt ta quan niệm con người có linh hồn, linh hồn là bất tử, tụ tán đi về, tìm cách tham dự vào cuộc sống của người trần thế một cách bí ẩn và màu nhiệm. Từ đó, cộng đồng người Việt từ cộng đồng làng, tới cộng đồng nước mới có tục thờ cúng những bậc tiên hiền, những anh hùng hào kiệt có công với làng với nước. Xét trong phạm vi gia đình, dòng họ thì người Việt ta sau này theo tục người Hoa mà thờ 5 đời. Lấy bản thân mỗi cá nhân làm bản vị thì lần lượt trở lên trên có cha mẹ (phụ mẫu) , ông bà (tổ phụ mẫu), cụ ông cụ bà (tằng tổ phụ mẫu), kỵ ông kỵ bà (cao tổ phụ mẫu), trên nữa là cao cao tổ cho đến thủy tổ. Việc thờ tự được ghi dấu trên ban thờ bằng các bài vị. Đến hết đời thứ 5 thì có thể hóa đi, gọi chung là Cụ Tổ.

Người Việt ta đặc biệt coi trọng ngày giỗ, gần là giỗ cha mẹ, xa là giỗ họ. Ngày giỗ do đích trưởng đứng ra lo liệu (riêng người miền Nam có thể là con út). Những anh em con cháu ở xa không về được có thể tiến hành giỗ vọng (thờ vọng). Xét trong đơn vị họ tộc, ngày giỗ họ trở nên rất quan trọng. Trước hết được xem là ngày biết ơn tiên tổ, sau nữa mang nhiều ý nghĩa như củng cố tình cảm huyết thống, giáo dục con cháu nhiều thế hệ biết sống yêu thương nhân nghĩa, cũng là dịp nghĩ về cái hữu hạn của kiếp người để sống sao cho tốt đẹp hơn, có ý nghĩa hơn…

Tuy nhiên, có thể nói rằng, cái gì cũng có mặt trái của nó. Cộng đồng dòng tộc nếu không có người cầm cân nảy mực tốt cũng nhiều khi sinh loạn. Rồi nữa, tình trạng “quần ngư tranh thực” (đàn cá tranh mồi) trong làng xã cũng gây ra không ít phiền toái. Hoặc giả không ít dòng họ trong làng xã chạy đua nhau theo kiểu “con gà tức nhau tiếng gáy” bèn tiến hành giỗ họ linh đình, xây nghĩa trang dòng họ xa hoa lãng phí… 

Ngày nay, duy trì tình cảm cố kết dòng họ, ngoài việc khắc phục những hiện tượng tiêu cực trên, nên nghĩ rộng rãi và thoáng đãng hơn. Thí dụ, có người quá chú trọng vào họ nội tộc mà sơ sài chăm lo thờ phụng bên ngoại. Đặc biệt, sinh hoạt cộng đồng dòng họ ngày hôm nay đang rất được chú trọng. Có những dòng họ duy trì sinh hoạt tầm cỡ quốc gia. Có dòng họ lập Ban điều hành, tập hợp những người thành đạt, tổ chức trang web, xuất bản in ấn tài liệu… Những việc làm đó chỉ thực sự có ý nghĩa nếu nó góp phần tác động, làm cuộc sống của các thành viên mỗi gia đình, mỗi cá nhân ngày một tiến bộ hơn lên và cộng hưởng chung với cộng đồng dòng họ khác để cùng tiến bộ. 

PGS-TS Văn Giá 

Báo Quân đội nhân dân


Văn hoá họ tộc Việt Nam

Gia phả và nhà thờ tộc họ luôn gắn liền nhau, kết nối dòng dõi từ những vị tiền hiền đến con cháu đời sau... Có nhà nghiên cứu cho rằng “nhà có phả cũng như nước có sử, phả nhà để ghi chép thế thứ các đời theo hệ thống huyết mạch, trên dưới...”.Giáo sư Trần Văn Giàu đi vào khía cạnh giáo dục đã tổng kết : “Xưa nay ông bà ta luôn luôn cho rằng để giáo dục con cháu không gì hay hơn dạy lịch sử: lịch sử dân tộc, lịch sử quê hương, lịch sử gia đình. Đạo đức, nhân cách con người Việt Nam xuất phát từ những lời giáo huấn của các vị thánh hiền, các lời dạy dỗ của tổ tiên được đúc kết trong các bộ gia phả lưu truyền qua nhiều đời, như là gương mẫu đối nhân xử thế trong cuộc sống...”

Nhiều năm sau chiến tranh, nhà thờ tộc họ đã được nhân dân đóng góp phục hồi, xây dựng lại cũng vì lẽ đó. Đó không chỉ là nơi lưu giữ gia phả, các văn tự cổ của người xưa cùng những sắc phong từ thời phong kiến, các  tượng thờ, bài vị cùng những điển tích về dòng họ hay những di vật của tổ tiên mà còn lưu giữ nhiều tài liệu liên quan đến lịch sử của cả dân tộc. Điều này rất quan trọng đối với nhiều nhà nghiên cứu bởi lắm trường hợp chính sử không còn dấu vết liên quan ...

 *Vài sắc thái sinh động của nhà thờ tộc họ


Được xây dựng vào năm 1840 dưới triều Nguyễn, đến nay nhà thờ tộc Trương ở Hội An hiện vẫn lưu giữ nhiều bảo vật. Được xem những tài liệu quý ở đây, ta có được thông tin khá cụ thể cách đây tròn 170 năm khi cụ tổ thứ 3 của tộc này chính thức đặt viên đá móng đầu tiên (lúc 5 giờ sáng ngày mồng 5 tháng 10 năm Canh Tý, tức ngày 28.11.1840) đã được khắc ngay trên cây trùng lương ở gian chính. Trang trí trong nhà thờ còn cho thấy những thông tin qúy hiếm về một tộc họ, như câu đối của cụ tổ thứ 3 là  Trương Chí Cẩn với 18 chữ  “Mậu thừa chí đồng hoài đình duy bách thế/Hiếu hữu truyền hậu tự phái diễn vạn niên”. Theo lời kể, ngoài ý nghĩa giáo huấn, cụ đã viết câu đối này để con cháu các đời (dự kiến 18 đời) dùng làm chữ lót, mỗi đời một chữ để phân biệt thứ lớp, kỷ cương. Ba chữ Mậu, Thừa, Chí đã có sẳn trong tên của hai cụ tổ đầu và của chính cụ là Chí Cẩn.  Đến nay đã đến đời thứ 10, con cháu tộc Trương ở Hội An vẫn tiếp tục đặt các chữ lót theo thứ tự câu đối trên. Cụ tổ thứ 4 là Trương Đồng Hiệp – Huấn đạo Quảng Nam (chức quan coi về giáo dục) dưới triều vua Thành Thái. Họa sĩ Trương Bách Tường với chữ lót của là Bách thì con cháu biết ngay ông thuộc đời thứ 8 để có cách xưng hô cho đúng...Năm 2004, nhà thờ tộc Trương cùng 5 ngôi nhà cổ khác trên toàn quốc được UNESCO khu vực châu Á – Thái Bình Dương trao tặng Giải thưởng Công trạng (Award of merit).


Ở Hội An còn có một di tích được xếp hạng là nhà thờ tộc Nguyễn Tường liên quan đến gia đình 3 nhà văn Nhất Linh, Thạch Lam và Hoàng Đạo ở làng Cẩm Phô (phía trên chùa Cầu, đoạn gần Khổng miếu) , còn được gọi là Dinh quan Binh bộ Thượng thư  - Nhuận trạch hầu Nguyễn Tường Vân- người có tên ghi trong Đại Nam Liệt truyện triều Nguyễn. Cụ Nguyễn Tường Vân là thân sinh tiến sĩ Nguyễn Tường Phổ, ông cố của 3 nhà văn trên. Dinh này được xây dựng từ năm 1806, tái tạo năm Duy Tân thứ 3 (1909). Nay đã được trùng tu lại thành nhà thờ tộc Nguyễn Tường. Theo cố nhà văn Nguyễn Văn Xuân, bức hoành “Nguyễn Tường Từ Đường” ở di tích này do Nguyễn Tường Long ( tức nhà văn Hoàng Đạo) cúng dường trong một lần thăm quê Hội An vào đầu thập niên 1930. Cùng với việc đưa hài cốt vợ chồng cố nhà văn Nhất Linh về an táng ở nghĩa trang gia tộc năm 2001, bên cạnh mộ cụ cố Nguyễn Tường Phổ, cách nhà thờ tộc hơn 1 km, đây trở thành một nhà thờ tộc nổi tiếng thu hút nhiều du khách trí thức đến thăm ở phố cổ...

Trong khi đó theo tài liệu của họ Phạm Việt Nam, nhà thờ họ Phạm tại  làng Khuôn Phò, huyện Quảng Điền (Thừa Thiên Huế) là một công trình khá đẹp theo kiến trúc truyền thống. Hãnh diện với công trình có giá trị này, chi nhánh họ Phạm ở TP HCM đã tổ chức... cuộc thi ảnh đẹp về công trình. Sau một năm phát động, đã có nhiều tác phẩm do các nghệ sĩ nhiếp ảnh chuyên nghiệp là con cháu trong tộc gởi về. Nhưng một chi tiết khá thú vị về lịch sử khi xem sắc phong của Vua Bảo Đại ban cho ông  Phạm Quyền ở làng Ngọc Sơn, tổng Dương An, phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Định, sinh năm 1846 khi được khen thưởng đã thọ 93 tuổi. Ông sống thọ đến 96 tuổi và qua đời năm 1942. Qua sắc phong, ta biết được lúc đó cả nước chỉ có 70 người sống quá tuổi 90!

Nhà thờ tộc Trương tại Diễn Châu mà các ông bà Trương Đình Tuyển và Trương Mỹ Hoa (nguyên Bộ trưởng Thương mại và nguyên Phó chủ tịch nước) là hậu duệ lại cho thấy một khía cạnh độc đáo khác: Một nhà thờ thờ chung hai tộc Trương và Đặng! Theo tôi là chưa từng thấy ở Việt Nam. Gia phả hai tộc cho biết nguyên hai cụ tổ tiền hiền hai họ trên đến Việt Nam khai khẩn đất đai là lấy vợ tại chỗ từ thời nhà Minh. Họ kết nghĩa anh em, rồi định cư, có công lập làng mở cõi và được phong chức tước từ thời nhà Lê, Nguyễn. Một nét đẹp về lòng trọng nghĩa vẫn được duy trì từ nửa thiên niên kỷ qua khi đến nay hậu duệ đến hơn 20 đời của hai họ này vẫn một lòng thờ chung thủy tổ của mình và vẫn coi nhau như anh em cật ruột!



Một góc nhà thờ Trương Đặng Công ở Diễn Châu


* Lịch sử trong những ngôi nhà thờ tộc...


Ở làng Hương Quế bên Quốc lộ 1A, thuộc xã Quế Phú, huyện Quế Sơn, Quảng Nam có một nhà thờ của tộc Phạm xây dựng từ thời vua Tự Đức. Trải qua mấy cuộc chiến tranh, gia phả tộc họ và 6 tờ sắc phong từ các đời chúa Nguyễn, vua Lê; trong đó có đại ấn "Đế mạng chi bửu" của vua Lê Thánh Tông và "Chế mạng chi bửu" của vua Lê Thần Tông ban tặng cách đây gần 6 thế kỷ vẫn còn nguyên vẹn, được bảo vệ cẩn thận trong một ống đồng.



Nhà thờ Hương Quế (Quế Sơn Quảng Nam nơi thờ các tiền hiền họ Phạm


Theo gia phả tộc Phạm ở Hương Quế, bậc tiền hiền vào đây đầu tiên là Phạm Nhữ Dực, con trai thứ 5 của danh tướng Phạm Ngũ Lão đời Trần. Năm 1401, Phạm Nhữ Dực giữ chức Chánh đô án vũ sứ phụ trách di dân vào khu vực Quảng Nam - Quảng Ngãi. Cháu nội của ông về sau là Phạm Nhữ Tăng theo vua Lê Thánh Tông vào Nam năm 1471 rồi được phong đến chức Quảng Nam thừa tuyên đô thống. Cụ Phạm Nhữ Tăng mất năm 1478 ở Bình Định, được vua cho cải táng đưa về an nghỉ tại làng Hương Quế. Trước mộ của cụ Phạm Nhữ Tăng hiện nay vẫn còn câu đối do chính vua viết, tạm dịch nghĩa:

                                   Nghĩa sĩ lắm mưu cơ, góp sức đồng lòng bình Chiêm quốc;

                                   Gương đài thêm rạng rỡ, hương hồn ngàn thuở rạng trời Nam.

Cho thấy dấu vết cụ thể và quan trọng của quá trình mở cõi về phương Nam của dân tộc ta vẫn còn đó.


Còn tại nhà thờ tộc Đặng ở thôn Đông Hộ, xã An Hải huyện đảo Lý Sơn là cả một bằng chứng thuyết phục về chủ quyền các quần đảo ở biển Đông của tổ quốc. Như ta biết, vào tháng 4-2009, tộc họ Đặng đã hiến tặng tờ lệnh quý về Hoàng Sa cho Bộ Ngoại giao. Tài liệu độc nhất vô nhị này do tộc họ Đặng đã giữ qua sáu đời, là “công lệnh” của quan tỉnh Quảng Ngãi theo lệnh triều đình đã cấp cho ông Đặng Văn Siểm và ông Dương Văn Định, ghi rõ ngày 15-4 năm Minh Mạng thứ 15 (1834), phái đội thuyền ba chiếc ra canh giữ đảo Hoàng Sa. Tờ lệnh gồm bốn trang - bản gốc còn nguyên vẹn nhất từ trước đến nay...Theo UBND tỉnh Quảng Ngãi không chỉ họ Đặng ở xã An Hải mà các tộc họ khác ở huyện đảo Lý Sơn đều có nhiều bậc tiền bối từng giong buồm ra biển Đông thực thi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền tổ quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Chi tiết này cho thấy, những yếu tố liên quan đến luật quốc tế về hành xử chủ quyền lãnh thổ đã được thực hiện rất sớm và liên tục trên biển Đông từ các chế độ phong kiến trước đây.

Hiện tôi cũng có mấy tài liệu liên quan đến các họ Võ, Hà, Trần ở làng Phong Ngũ (Điện Bàn, Quảng Nam). Từ những tài liệu này, có thể tìm ra các tổ chức Giáp ( từ Nhất Giáp đến Lục Giáp) ở đàng Trong, cũng như biết được tổ tiên một số tộc họ liên quan vào Nam từ thời nào! (Khác với nhiều gia phả đã ghi tổ tiên họ vào Nam từ khi Lê Thánh Tôn thắng Chiêm Thánh năm 1471, vì mỗi tộc họ chỉ mới có 17-18 đời...).


*Kết


Trong văn hóa truyền thống Á Đông, nếu gia đình được coi là tế bào của xã hội, thì tộc họ là cơ chế kết nối đầu tiên và quan trọng giữa từng gia đình với làng xã. Ngày nay, mọi gia đình Việt Nam đều giữa được những truyền thống tốt đẹp nhất trong mối liên hệ huyết thống trong tộc họ và vì vậy, đạo đức cá nhân được đề cao, tạo nên sự vững chắc cho cộng đồng. Chúng ta có hàng triệu những ví dụ minh họa cho điều đó. Qua ghi chép về những nét sinh động ở các tộc họ trên đây, bài viết này muốn nói rằng vẫn còn rất nhiều điều thuộc về lịch sử và văn hóa từ các tộc họ vẫn chưa được khai thác hết nhằm góp phần vào việc giáo dục nhân cách, lịch sử cho các thế hệ sau.

http://timcoinguon.blogspot.com/2013/06/van-hoa-ho-toc-viet-nam-toc-ho-ben-chat.html