Family trees - Pham

 Họ Phạm là một dòng họ lớn trung bình, đứng thứ 5 sau các họ Nguyễn, họ Lê, họ Trần… Dân số chiếm khoảng trên vài triệu người. 

Theo điều tra, cho đến nay, Họ Phạm Việt Nam có hàng chục ngàn dòng họ không cùng một gốc, không cùng huyết thống:  06 dân tộc có người mang Họ Phạm, bao gồm: 1/165 họ của người Kinh; 1/11 họ của người Mường; 1/11 họ của người Tày; 1/172 họ của người Việt gốc Hoa; 01/49 họ của người Việt gốc Khmer.

Họ Phạm Việt Nam có từ bao giờ?

Theo các bản Thần phả, Thần tích sự xuất hiện các vị họ Phạm sớm như: Nam Hải Đại Vương Phạm Hải , và ba anh em Phạm Vĩnh (Trấn Tây An Tam Kỳ Linh ứng Thái Thượng đẳng Thần) thế kỷ III trước CN, giúp Vua Hùng thứ 18 đánh Thục. Tướng quân Phạm Gia, tướng của An Dương Vương, năm 208 trước CN lui quân về vùng Hoài Đức…..

Một số mộ cổ ở Quảng Ninh, Thái Bình có ghi là “Phạm Công” có cách đây trên 2 ngàn năm. Phạm Công không phải là tên của một người nào đó mà là một cách xưng hô như : ông, ngài thời nay.

Theo sử sách (Đại Việt sử ký toàn thư) và các sắc phong còn lưu tại Đình thờ Phạm Tu tại Hà Nội, Phạm Tu (476-545)  là người được lịch sử ghi chép rõ ràng nhất cho đến nay nhưng không có gia phả nào được công bố gắn bó trực tiếp với ông:

Thân phụ của Phạm Tu là Phạm Thiều quê ở thôn Vực Mụ, xã Thanh Liệt, huyện Thường tín Hà Nội. Thân mẫu của Phạm Tu là Lý Thị Trạch cùng quê thân phụ  Phạm Tu. Phạm Tu sinh ngày Mười hai tháng Ba năm Bính Thìn (476), mất ngày Hai mươi tháng Bấy năm Ất Sửu (545).

Là khai quốc công thần triều Tiền Lý, đã có công đánh đuổi quân Lương (542), đánh tan quân xâm lấn Lâm Ấp (543), dựng Nhà nước Vạn Xuân (544).  Nhà nước Vạn Xuân của Lý Nam đế là Nhà nước độc lập có tổ chức đầu tiên của Việt Nam. Với cương vị là người đứng đầu Ban Võ (tương đương với Bộ trưởng bộ quốc phòng bây giờ).

 

Việc suy tôn cụ Phạm Tu làm Thượng Thủy Tổ Họ Phạm VN có đủ căn cứ khoa học được Viện khoa học Lịch sử và Hội Khoa học Lịch sử VN đồng tình. Còn có nhiều dòng họ Phạm khác như họ Phạm ở Kính Chủ Hải Dương, Họ Phạm Hồng Át ở Hưng Yên, Phạm Nhữ Tăng ở Quảng Nam Đà Nẵng, Phạm Bạch Hổ vv…nhưng đều xuất hiện sau cụ Phạm Tu nhiều thế kỷ.

Có phải họ Phạm Việt Nam từ Trung Quốc sang không?

Chưa xác định rõ, 

Họ Phạm ở Việt Nam có thể có hai nguồn gốc chính: từ cộng đồng tộc Việt trong Bách Việt của nước Văn Lang, Âu Lạc xưa; từ nguồn gốc ở các tỉnh miền Nam Trung quốc di cư sang và được Việt hoá. Ngoài ra còn có họ Phạm từ các dòng họ khác đổi sang như họ Mạc, họ Hoàng, họ Hà….

 

Hàng trăm Hội đồng gia tộc, HĐ dòng họ lớn ở khắp nơi như Phạm Đạo Soạn (gốc Kính Chủ- Hải Dương), Trần triều Điện Soái Phạm Ngũ Lão (gốc Hưng Yên), Đông Đồ (Đông Anh, Hà Nội), Phạm Ngàn Ngu (Ninh Bình), Phạm Vũ Đôn Thư, Phạm Huy (Thanh Oai, Hà Nội), Phạm Văn Viết (gốc Sơn Tây), Phạm Đông Ngạc (Từ Liêm, Hà Nội), Phạm Đình (Thượng Hội, Đan Phượng), Phạm Nhữ (miền Trung, Bình Định), Phạm Khắc (Hà Tĩnh), Phạm Khắc (Bến Tre), Phạm Linh Kiệt (Nghệ An). 

Theo www.hophamvietnam.org 


Các vị thần họ Phạm trong tài liệu Viện Hán Nôm

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

Phạm A Lự, Phạm Lự Nương

5671/ 633. HƯNG YÊN TỈNH ÂN THI HUYỆN CÁC XÃ THẦN TÍCH 興 安 省 恩 施 縣 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 324 tr., 29.5 x 21, chữ Hán.AE.A3/1Thần tích 3 thôn, 6 xã thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

1. Thôn Đường, tổng Đặng Xá 鄧 舍: 36 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Lý: Chiêu Công Đại Vương 昭 公 大 王; Ngọc Nương Cung Tần Xuân Hoa Công Chúa 玉 娘 宮 嬪 春 花 公 主.2. Xã Đặng Xá 鄧 舍: 28 tr., do Nguyễn Hiền kiểm chứng năm 1737, gồm sự tích 2 vị thần triều Hùng: Minh Vương Hộ Quốc Tôn Thần 明 王 護 國 尊 神; Cao Sơn Quý Minh Tôn Thần 高 山 貴 明 尊 神 và sự tích 4 bức tượng: Pháp Vân 法 雲 , Pháp Vũ 法 武 , Pháp Lôi 法 雷 , Pháp Điện 法 電.3. Xã Kinh Bối 涇 貝: 24 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 4 vị thần triều hùng: Ả Lệ Già Lê Cửa Ngòi Công Chúa 婀 例 茄 黎 。 。 公 主; Linh Thông Hiển Ứng Đại Vương 靈 通 顯 應 大 王; Thủy Thần Đống Lạp Linh Uy Đại Vương水 神 棟 臘 靈 威 大 王; Đi Thần Đống Mô Uy Dũng Đại Vương 薹 神 棟 模 威 勇 大 王.

4. Xã Trâm Nhĩ 簪 珥: 50 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đức Vua Bà Công Chúa 婆 公 主 triều Đinh; Minh Lang Uy Linh Đại Vương 明 郎 威 靈 大 王 triều Hùng; Cử Thần Ông Búa Dũng Mãnh Đại Thần Vương 莒 神 翁 鈽 勇 猛 大 王 triều Lý.

5. Thôn Phú, xã Thổ Hoàng 土 黃: 8 tr., gồm sự tích 2 vị thần đời Lý: Vũ Hương 武 香 (Linh Đài Đại Phu 靈 薹 大 夫 ); Vũ Huệ 武 慧 (Văn Huệ Công Chúa 文 惠 公 主 ).

6. Thôn Quanh, xã Thổ Hoàng 土 黃: 28 tr., soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Thần Thông Quang Minh Đại Vương 神 通 光 明 大 王; Cương Nghị Thuần Vũ Đại Vương 剛 毅 純 武 大 王; Hùng Cường Trung Tín Đại Vương雄 強 忠 信 大 王.

7. Xã Đặng Xuyên 鄧 川: 66 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 5 vị thần triều Hùng: Cao Sơn Hiển Ứng Đại Vương 高 山 顯 應 大 王; Quý Minh Uy Linh Đại Vương 貴 明 威 靈 大 王; Trung Hiếu Đại Vương 忠 孝 大 王; Trung Thành Đại Vương 忠 城 大 王; Trung Lương Đại Vương 忠 良 大 王.

8. Xã Đinh Xá 丁 舍: 28 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 5 vị thần triều Hùng: Thống Lĩnh Nhạc Phủ... Hiển Công Đại Vương 統 領 岳 府... 大 王; Phụ Chính Nguyên Soái... Hựu Công Đại Vương 輔 政 元 帥... 佑 公 大 王; Tiết Chế Nhạc Phủ... Quý Công Đại Vương 節 制 岳 府... 貴 公 大 王; Ty Bố Nhạc Phủ... Minh Công Đại Vương 司 布 岳 府... 明 公 大 王; Đề Chưởng Nhạc Phủ... Uy Công Đại Vương 提 掌 岳 府... 威 公 大 王.

9. Xã Nam Trì 南 池: 64 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 7 vị thần: Lữ Gia 呂 嘉 (Bảo Công 保 公 ); Nguyễn Lang 阮 狼 (Lang Công 狼 公 ); Lâu Nương Công Chúa 樓 娘 公 主; Cao Biền 高 駢 (Cao Vương 高 王 ); Phạm A Lự 范 婀 爐 , Phạm Lự Nương 范 慮 娘; Nguyễn Lang 阮 郎.


Phạm An

5688/ 650. HƯNG YÊN TỈNH VĂN LÂM HUYỆN THÁI LẠC XÃ THẦN TÍCH 興 安 省 文 林 縣 太 樂 社 神 蹟- 1 bản viết, 14 tr., 29.5 x 21, chữ Hán.AE.A3/18Thần tích xã Thái Lạc thuộc tổng Thái Lạc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, gồm sự tích Phạm An 范 安 (An Dưỡng Phúc Sinh... Thượng Đẳng Phúc Thần Đại Vương 安 養 福 生... 上 等 福 神 大 王) triều Lê, do Nguyễn Bính soạn năm 1572; Pháp Vũ Phật Tôn Thần 法 雨 佛 尊 神, chép năm 1897.


Phạm Bạch Hổ

5900/ 862. SƠN TÂY TỈNH PHÚC THỌ HUYỆN PHỤNG THƯỢNG TỔNG CÁC XÃ THANH MẠC THU VĨ NGỌC TẢO THẦN TÍCH 山 西 省 福 壽 縣 奉 上 總 各 社 青 幕 秋 韋 玉 藻 神 蹟- 1 bản viết, 56 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán, có Nôm.AE.A10/6Thần tích 3 xã thuộc tổng Phụng Thượng, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây.

1. Xã Thanh Mạc 青 漠: 22 tr., về sự tích Phạm Bạch Hổ 范 白 虎 (Đức Khai Thiên Hộ Quốc... Đại Vương 德 開 天 護 國... 大 王).

* Có bài Vấn Bằng Châu phong cảnh lục soạn bằng chữ Hán và chữ Nôm, nói về phong cảnh Đằng Châu.

2. Xã Thu Vĩ 萩 葦: 19 tr., gồm sự tích Linh Lang Đại Vương 靈 郎 大 王 triều Lý, soạn năm 1855; Linh Lang Vương 靈 郎 王triều Trần; Hạ Giới Đại Vương Tôn Thần 下 界 大 王 尊 神 và Mãnh Tướng Đại Vương Tôn Thần 猛 將 大 王 尊 神.

3. Xã Ngọc Tảo 玉 藻: 14 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, sao lại vào năm 1850, về sự tích Khiếu Đại Pháp Vi Ngọc Quang Đại Vương 叫 大 法 微 玉 光 大 王.


5956/ 918. THÁI BÌNH TỈNH THÁI NINH PHỦ THANH QUAN HUYỆN ĐỒNG HẢI TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 太 平 省 太 寧 府 青 關 縣 同 海 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 60 tr., 31 x 22, chữ Hán.AE.A5/38Thần tích 4 xã, thuộc tổng Đồng Hải, huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình.

1. Xã Lương Đống 樑 棟: 3 tr., gồm sự tích Cao Sơn Đại Vương 高 山 大 王: họ Cao, húy là Hiển, người Bắc Quốc; sự tích Thông Minh Nhân Thánh... Phúc Thần 聰 明 仁 聖... 福 神: họ Đông, húy là Lương, đại Tướng Quân thời Tiền Lê; sự tích Cương Minh... Phúc Thần 剛 明...福 神: họ Đào(?), húy là Hộ, Đại tướng quân thời Tiền Lê; sự tích Minh Triết... Phúc Thần 明 哲... 福 神: họ Cao, húy Phát 發; và sự tích Thái Giám Tôn Thần 太 監 尊 神: họ Chân, húy Kim, Quan Thái giám triều Lê.

2. Xã Văn Ông 文 翁: 40 tr., gồm sự tích Thông Linh Hiển Ứng Đại Vương 通 靈 顯 應 大 王: họ Phạm 范 , húy Hổ 虎 , tự Phòng Át 防 遏 , một trong 12 sứ quân thời Ngô Vương; và sự tích Sùng Công 崇 公 (Quý Minh Đại Vương 貴 明 大 王) thời Hùng Duệ Vương.

3. Xã Tế Quan 細 關: 3 tr., về sự tích Lục Lang Đại Vương 陸 郎 大 王, con thứ của Trần Nghệ Tông, triều Trần.

4. Xã An Trực 安 直: 14 tr., gồm sự tích Thục An Dương Vương 蜀 安 陽 王 (Nam Hải Đại Vương 南 海 大 王); và sự tích Cao Sơn Đại Vương 高 山 大 王: họ Cao, tên Hiển, người Bảo Sơn, quận Quảng Nam, nước Đại Tống, có nhiều công lao, khi mất, vua Tống ban thần hiệu, bắt các nước chư hầu xây miếu thờ. Có bài văn bia và bài minh, đề năm Hồng Thuận 2 (1510), do Lê Tung soạn.


Phạm Bàn

5747/ 709. NAM ĐỊNH TỈNH HẢI HẬU HUYỆN KIÊN TRUNG TỔNG THẦN TÍCH 南 定 省 海 後 縣堅 忠 總 神 蹟- 1 bản viết, 142 tr., 32 x 22, chữ Hán.AE.A15/4Thần tích 5 xã thuộc tổng Kiên Trung, huyện Hải Hậu, phủ Xuân Trường 春 長 , tỉnh Nam Định.

1. Xã Kiên Trung 堅 忠: 18 tr., gồm sự tích Thục Phán 蜀 泮 (Nam Hải Đại Vương 南 海 大 王); Hàm Hoằng Quang Đại Vương... Thượng Đẳng Thần 含 弘 光 大 王... 上 等 神.2. Xã Lạc Nam 樂 南: 24 tr., gồm sự tích: Nam Hải Đại Vương 南 海 大 王; Quý Minh Đại Vương 貴 明 大 王 triều Hùng; Hưng Đạo Đại Vương 興 道 大 王 triều Trần; Lê Châu 黎 珠 (Thượng Trụ Quốc Lê Cảnh Quận Công 上 柱 國 黎 景 郡 公 ) triều Tiền Lê; Trần Xuân Trạch 陳 春 澤 triều Nguyễn; Phạm Bàn 范 盤 triều Nguyễn; Lê Thế Vinh 黎 世 榮 (Minh Nghĩa Đô Úy Chư Quân Quản Cơ 明 義 都 尉 諸 軍 管 奇 ).

3. Xã Hà Lạn 霞 爛: 52 tr., gồm sự tích: Tứ Vị Thánh Nương 四 位 聖 娘 (là Hoàng Hậu, Công Chúa... nhà Tống); Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主; Triệu Việt Vương 趙 越 王.4. Xã Hà Nam 霞 南: 16 tr., gồm sự tích: Hoàng Hậu họ Dương nhà Tống 宋 后; Thục Phán 蜀 泮 (văn bản viết là ) (Nam Hải Phạn Đại Vương 南 海 梵 大 王).

5. Xã Trà Trung 茶 中: 30 tr., gồm sự tích: Triệu Quang Phục 趙 光 復 (Triệu Việt Vương 趙 越 王); Hoàng Tử Minh Lang 皇 子 明 郎 (Minh Lang Uy Linh Đại Vương 明 郎 威 靈 大 王) triều Hùng; Linh Lang Vương 靈 郎 王 triều Lý.


Phạm chánh sứ Đại vương

5325/ 287. NINH BÌNH TỈNH GIA VIỄN HUYỆN THANH QUYẾT TỔNG CÁC XÃ THẦN SẮC 寧 平 省 嘉 遠 縣 青 厥 總 各 社 神 敕- 1 bản viết, 26 tr., 32 x 22.5, chữ Hán.AD. A4/13Thần sắc 4 xã thuộc tổng Thanh Quyết, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.

1. Xã Cung Quế 宮 桂: 6 tr., phong cấp vào các năm Cảnh Hưng (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo).* Phong cho Phạm Chánh Sứ Đại Vương 范 政 使 大 王; Bùi Lão Quân Đại Vương 裴 老 君...大 王; Đông Hải... Đại Vương 東 海...大 王.2. Xã Sơn Quyết 山 蕨: 4 tr., phong cấp vào năm Cảnh Hưng (1 đạo).* Phong cho Thành Hoàng là Phổ ứng... Đại Vương 普 應...大 王.3. Xã Thượng Hòa 上 和: 10 tr., phong cấp vào các năm Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo).* Phong cho Bố Cái... Đại Vương 布 蓋...大 王.4. Xã Trà Lai 茶 萊: 4 tr., phong cấp vào năm Cảnh Hưng (1 đạo).* Phong cho Thượng Quốc Tướng An Cảnh... Đại Vương 上 國 將 安 境...大 王.


Phạm Công Huy (TS Phạm Huy)

5791/ 753. NGHỆ AN TỈNH NGHI LỘC HUYỆN ĐẶNG XÁ TỔNG CÁC XÃ THÔN THẦN TÍCH 乂 安 省 興 元 府 鄧 舍 總 各 社村 神 蹟- 1 bản viết, 13 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán.AE.B1/2Thần tích 2 thôn, 1 xã thuộc tổng Đặng Xá, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

1. Thôn Chính Vĩ 政 偉 , xã Lộc Hải 祿 海: 3 tr., về sự tích Vương Bột 王 勃 , tự Tử An 子 安.2. Xã Lộc Hải 祿 海: 3 tr., về sự tích Phạm Công (Nguyên Soái Thái Bảo Thành Quốc Công Tứ Dương Hầu 元 帥 太 保 成 國 公 泗 陽 侯 ).

3. Thôn Cổ Bái 古 沛: 5 tr., về sự tích Phạm Công Huy 范 公 徽.* Có bài thơ Nôm và bài tựa.


Phạm Công Tử

5727/ 689. KIẾN AN TỈNH KIẾN THỤY PHỦ NGHI DƯƠNG HUYỆN TRÀ PHƯƠNG TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 建 安 省 建 瑞 府 宜 陽 縣 芳 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 40 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán.AE.A12/12Thần tích 3 xã, thuộc tổng Trà Phương, huyện Nghi Dương, tỉnh Kiến An.

1. Xã Phương Đôi 芳 堆: 18 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Lục Lang Trung Mẫn Đại Vương 陸 郎 忠 敏 大 王triều Trần.

2. Xã Cẩm Hoàn 錦 還: 7 tr., soạn năm Thuận Thiên 3 (1430); về sự tích Phạm Công Tử 范 公 子 (Phạm Công Tử Linh Ứng Đại Vương 范 公 子 靈 應 大 王).

3. Xã Xuân La儸: 13 t.r, do Lê Tung soạn năm Hồng Thuận 2 (1510); về sự tích Cao Hiển 高 顯 , tự Vân Trường 雲 長 (Cao Sơn Quốc Chủ Đại Vương 高 山 國 主 大 王); Quý Minh Đại Vương 貴 明 大 王.

* Có 1 bài văn bia.


Phạm Cự Lượng

5987/ 949. THÁI NGUYÊN TỈNH PHỔ YÊN PHỦ HOÀNG ĐÀM TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 太 元 省 普 安 府 黃 潭 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 25 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán, có Nôm.AE.A18/1Thần tích 2 xã thuộc tổng Hoàng Đàm, phủ Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

1. Xã Hoàng Đàm 黃 潭: 4 tr., gồm sự tích Phạm Cự Lượng 范 巨 倆 (Hồng Thánh Khuông Quốc Trung Vũ Tá Trị Đại Vương洪 聖 匡 國 忠 武 佐 治 大 王) thời Lý Thái Tông; và sự tích Trương Hống 張 吼 , Trương Hát 張 喝 (Đại Đương Giang Hộ Quốc Khước Địch... Đại Vương 大 當 江 護 國 卻 敵... 大 王) triều Triệu Việt Vương.

2. Xã Xuân Hạc 椿 鶴: 19 tr., gồm sự tích Trương Hống 張 吼 (Khước Địch... Đại Vương 卻 敵... 大 王) Trương Hát 張 喝 (Uy Địch... Đại Vương 威 敵... 大 王).

* Có bài thơ lục bát bằng chữ Nôm.


Phạm Cư Sĩ, Phạm Thiện, Phạm Quang

5676/ 638. HƯNG YÊN TỈNH KHOÁI CHÂU PHỦ KIM ĐỘNG HUYỆN CÁC XÃ THẦN TÍCH 興 安 省 快 卅 府 金 洞 縣 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 388 tr., 29.5 x 21, chữ Hán.AE.A3/6Thần tích 1 thông 18 xã thuộc huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

1. Thôn Hương Dương 香 楊: 10 tr., về sự tích Bính Tông Hoàng Đế 昺 宗 皇 帝 nhà Tống cùng Hoàng hậu, cung phi bị quân Nguyên bức bách nhảy xuống biển tự tử, xác trôi sang Việt Nam được dân dựng miếu thờ.

2. Xã Đào Xá 陶 舍: 26 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Vũ Nguyên 武 元 (Khai Quốc Đại Vương 開 國 大 王) thời nhà Triệu.

3. Xã An Xá 安 舍: 36 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Hùng: Anh Thanh Linh Ứng Đại Vương 英 清 靈 應 大 王 , Dực Vận Thục Chúa Đại Vương 翊 運 蜀 主 大 王.

4. Xã Trúc Cầu 竹 梂: 6 tr., gồm sự tích: Tạ Đức 謝 德 (Ninh Vũ Đại Vương 寧 武 大 王); Hiển Ứng Đại Vương 顯 應 大 王; Hộ Quốc Đại Vương 護 國 大 王 triều Lý, sao năm 1509; sự tích 3 nhà sư tu ở chùa của xã đắc đạo thành Phật: Trần Bao 陳 包 , Trần Vĩnh 陳 永 , Trần Vinh 陳 榮 triều Minh, chép năm 1695.

5. Xã Dưỡng Phúc 養 覆: 10 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Minh Tuệ Đại Vương 明 慧 大 王 thời nhà Triệu.

6. Xã Cốc Khê 穀 溪: 50 tr., gồm sự tích: Đông Thành Đại Vương 東 城 大 王 triều Đinh, do Nguyễn Bính soạn năm 1572; Đoàn Thượng 段 尚 (Đông Hải Đại Vương 東 海 大 王) triều Lý; Phạm Cư Sĩ 范 居 士 triều Lý do Nguyễn Bính soạn năm 1572.

* Có bài Đoàn Thượng luận 段 尚 論 , bàn về Đoàn Thượng.

7. Xã Phục Lễ 復 禮: 12 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572 (văn bản viết lầm là năm 1735), gồm sự tích Lưu Lang Đại Vương 劉 郎 大 王 triều Đinh; Thiên Vương Hoàng Hậu 天 王 皇 后 (Tiên Dung Công Chúa 仙 容 公 主 ) triều Hùng.

8. Xã Phú Cốc 富 穀: 18 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, sự tích Nguyễn Trung 阮 忠 (Trung Quốc Hiển Ứng Đại Vương 忠 國 顯 應 大 王) triều Trưng Vương.

9. Xã Phán Thủy 泮 水: 22 tr., do Nguyễn Bính (văn bản viết nhầm là Nguyễn Hiền) soạn năm 1572, gồm sự tích các thần: Chu Văn Minh 朱 文 明 (Độc Cước Đại Vương 獨 腳 大 王); Nguyệt Lãng Đại Vương 月 朗 大 王 triều Trần; Trung Quốc Đại Vương 忠 國 大 王.

10. Xã Tiên Quán 僊 館: 28 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Trung Thành Phổ Tế Đại Vương 忠 城 普 濟 大 王.

11. Xã Mai Viên 枚 園: 20 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, (văn bản viết nhầm Nguyễn Bính thành Nguyễn Hiền và Nguyễn Hiền thành Nguyễn Bính), gồm sự tích 2 vị thần triều Trưng Vương: Dương Nước (Bến Nước Đại Vương 。。 大 王); Dương Đình 楊 亭 (Đương Đình Đại Vương 楊 亭 大 王) và 1 Công Chúa Chiêm Thành: Đệ Nhị Vị Công Chúa Áo Đỏ Đại Vương 第 二 位 公 主。 。 大 王 triều Lý.

12. Xã Đào Xá 陶 舍: 20 tr., do Lê Văn Bích 黎 文 壁 soạn năm 1470, gồm sự tích 3 vị thần triều Đinh: Đôn Thiện Sùng Tín Đại Vương 敦 善 崇 大 王, Đông Chinh Thiên Môn Đại Vương 東 征 天 門 大 王, Tây Chinh Địa Phủ Đại Vương 西 征 地 府 大 王.

13. Xã Thanh Sầm 青 岑: 12 tr., chép năm 1680, gồm sự tích 2 vị thần triều Hùng: Phạm Thiện 范 善 (Hướng Thiện NinhQuốc Đại Vương 向 善 寧 國 大 王), Phạm Quang 范 光 (Đạo Quang Vĩnh An Đại Vương 道 光 永 安 大 王).

14. Xã Tạ Xá 謝 舍: 30 tr., chép năm 1680, gồm sự tích 2 vị thần: Lý Đức 李 德 (Dực Đức Hiển Ứng Đại Vương 翼 德 顯 應 大 王); Lý Tịnh 里 靖 (Liêm Tịnh Uy Linh Đại Vương 廉 靖 威 靈 大 王).

15. Xã Dưỡng Phúc 養 覆: 14 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Đệ Nhị Cung Phi Nguyễn Thị Thục Tư Đoan Từ... Công Chúa 第 二 宮 妃 阮 氏 淑 端 慈... 公 主 triều Trần.

16. Xã Cốc Ngang 穀 昴: 32 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Hùng: Cấp Tăng Thổ Phúc Cư Sĩ Đại Vương 級 增 土 福 居 仕 大 王; Vương Phi Hậu Nương Phù Dung Công Chúa 王 妃 后 娘 芙 蓉 公 主.17. Xã Kim Đằng 金 藤: 12 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Đinh: Đinh Điền Tế Thế... Đại Vương 丁 佃 濟 世... 大 王 (còn gọi là Trung Chiêu Kiệt Tiết... Đại Vương 忠 昭 竭 節... 大 王); Môi Nương Huệ Hòa... Phu Nhân 媒 娘 惠 和...夫 人.18. Xã Đằng Man 藤 蔓: 8 tr., do Hoàng Cao Khải soạn năm 1893, ghi việc được Thánh Mẫu 聖 母 báo mộng âm phù giúp cho thoát hiểm.

19. Xã Xích Đằng 赤 藤: 20 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Lạc Long Quân 貉 龍 君.* Có bài: Long quân điện phụng giám thủ bi chí 龍 君 殿 奉 監 守 碑 誌 soạn vào năm Cảnh Hưng.


5543/ 505. HÀ ĐÔNG TỈNH PHÚ XUYÊN HUYỆN CÁC XÃ THẦN TÍCH 河 東 省 富 川 縣 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 242 tr., 28 x 16, chữ Hán.AE.A2/42Thần tích 1 trang, 3 thôn, 7 xã thuộc tổng Mỹ Lâm 美 林 , huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông.

1. Thôn Cổ Chế 古 制: 12 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Trung Thành Phổ Tế Đại Vương 忠 誠 普 濟 大 王thời Hùng Vương.

2. Thôn Đoài, xã Đại Đồng 大同: 10 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572 (sách viết lầm là năm 1795), gồm sự tích Nhân Cường Dũng Mãnh... Đại Vương 仁 強 勇 猛... 大 王 và Thái Thượng Thượng Sĩ Đại Vương 泰 上 尚 仕... 大 王.

3. Xã ứng Hòa 應 和: 20 tr., gồm sự tích: Trung Thành Đại Vương 忠 誠 大 王 thời Hùng Vương và Đoàn Thượng 段 尚(Đông Hải Đại Vương 東 海 大 王) thời Lý - Trần.

4. Xã Mỹ Lâm 美 林: 30 tr., gồm sự tích: Đoàn Thượng 段 尚 (Đông Hải Đại Vương東 海 大 王) thời Lý - Trần và Nguyệt Nga Công Chúa Phu Nhân 月 娥 公 主夫 人 , do Nguyễn Bính soạn năm 1572.

5. Xã Cổ Châu 古洲: 18 tr., gồm sự tích: Đoàn Thượng 段 尚 Phạm Cư Sĩ 范 居 士 thời Lý - Trần.

6. Xã Thao Chính 洮 正: 16 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, sự tích Nguyệt Nga Công Chúa Phu Nhân 月 娥 公 主夫 人.7. Thôn Nam, xã Đại Đồng 大同: 12 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Ả Nanh Nga My Công Chúa Đại Vương娥 媚 公 主 大 王.8. Xã Phú Mỹ 富 美: 34 tr., về sự tích Trung Thành Phổ Tế... Đại Vương 忠 誠 普 濟... 大 王 triều Hùng.

9. Xã Nam Quất 南 橘: 20 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Chu Thịnh Đại Vương 朱 盛 大 王 triều Hùng.

10. Trang Phong Triều 豐 朝: 24 tr., về sự tích Trung Thành Phổ Tế... Đại Vương 忠 誠 普 濟....大 王 triều Hùng.

11. Xã Nam Phú 南 富: 44 tr., do Nguyễn Hiền chép năm 1736, về sự tích Tản Viên Sơn Thánh 傘 圓 山 聖.* Có bài tựa.


5799/ 761. NINH BÌNH TỈNH GIA KHÁNH HUYỆN CÁC XÃ THẦN TÍCH 寧 平 省 嘉 慶 縣 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 120 tr., 32 x 22, chữ Hán.AE.A4/5Thần tích 5 thôn, 3 xã thuộc tổng Thiện Trạo 善 棹 , huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình.

1. Thôn Thượng, xã Thiện Trạo 善 棹: 12 tr., về sự tích Quý Minh Đại Vương 貴 明 大 王 triều Hùng.

2. Thôn HạThiện Trạo 善 棹: 6 tr., gồm sự tích Nguyễn Phục 阮 復 (Lực Lộ Tôn Thần 力 路 尊 神); Lê Hỏa 黎 火 (Phổ Hóa Tôn Thần 普 化 尊 神) triều Trưng Vương.

3. Xã Yên Khoái 安 快: 24 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Đức Vương Cả Lang Nga Công Tôn Linh Đại Vương德 王 奇 廊 峨 公 尊 靈 大 王 triều Hùng.

4. Thôn Thượng, xã Yên Phúc 安 福: 30 tr., gồm sự tích 2 vị thần triều Đinh, do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Cao Lịch 高 靂 (Lịch Lộ Đại Vương Trung Đẳng Thần 靂 露 大 王 中 等 神 ) 2. Cao Khiển 高 譴 (Hành Khiển Đại Vương Trung Đẳng Thần行 譴 大 王 中 等 神 ); và 2 vị thần đời Lý: Đoàn Thượng 段 尚 (Đông Hải Đại Vương 東 海 大 王); Phạm Cư Sĩ 范 居 士.5. Thôn Trung, xã Yên Phúc: 18 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Đinh: Cao Các Phổ Tế Đại Vương 高 閣 普 濟 大 王; Cao Sơn Nghĩa Dũng Đại Vương 高 山 義 勇 大 王.

6. Thôn Hạ, xã Yên Phúc: 18 tr., về sự tích 2 vị thần triều Đinh: Cao Lịch 高 靂 (Lịch Lộ Đại Vương Trung Đẳng Thần 靂 露 大 王 中 等 神 ); Cao Khiển 高 譴 (Hành Khiển Đại Vương Trung Đẳng Thần 行 譴 大 王 中 等 神 ).

7. Xã Phương Đình 芳 亭: 4 tr., về sự tích Nguyễn Phổ 阮 普 (Lực Lộ Linh Ứng Thượng Đẳng Thần 力 路 靈 應 上 等 神 ) triều Lê.

8. Xã Phúc Lộc 福 祿: 4 tr., sự tích thủy thần 水 神.


5179/ 141. HÀ NAM TỈNH DUY TIÊN HUYỆN TIÊN XÁ TỔNG CÁC XÃ THẦN SẮC 河 南 省 維 先 縣先 舍 總 各 社 神 敕- 1 bản viết, 97 tr., 32 x 22.5, chữ Hán.AD. A13/9Thần sắc 3 thôn và 5 xã thuộc tổng Tiên Xá, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.

1. Xã Kim Lũ 金 縷: 9 tr., phong cấp vào các năm Cảnh Hưng (2 đạo), Chiêu Thống (2 đạo).* Phong cho Cao Quan.. Đại Vương 高 冠...大 王; Chàng Đại Thiên Minh... Đại Vương 撞 大 天 明...大 王; Lỗ Địa Đài Vương... Đại Vương 魯 地 檯 王...大 王; Phương Dung... Công Chúa 芳 容 公 主.2. Xã Lục Nộn 錄 嫩: 29 tr., phong cấp vào các năm Dương Hòa (1 đạo), Chính Hòa (3 đạo), Cảnh Hưng (5 đạo), Chiêu Thống (4 đạo).* Phong cho Đông Bảng.. Đại Vương 東 榜...大 王; Lã Đông An... Đại Vương 呂 東 安...大 王; Hiển Cung Hồng Nương... Công Chúa 顯 宮 紅 娘...公 主; Chân Tiên Công Chúa 真 仙 公 主; Thủy Tiên... Công Chúa 水 晶...公 主.3. Xã Yên Bảo 安 保: 27 tr., phong cấp vào các năm Dương Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (2 đạo), Cảnh Hưng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo).* Phong cho Phương Phi.. Hoàng Thái Hậu 芳 菲...皇 后; Phương Dung Công Chúa 芳 容 公 主.4. Thôn Trung , xã Tiên Xá 先 舍: 14 tr., phong cấp vào năm Cảnh Thịnh (1 đạo).* Phong cho Phạm Tiên Sinh... Sùng Nhân Cư Sĩ... Đại Vương 范 先 生...崇 仁 居 士...大 王.5. Thôn Xa Lao 車 牢 , xã Tiên Xá: 3 tr., phong cấp vào năm Cảnh Hưng (2 đạo).* Phong cho Trấn Quốc... Đại Vương 鎮 國...大 王; Đông Bảng... Đại Vương 東 榜...大 王.6. Xã Yên Ngoại 安 外: 2 tr., phong cấp vào năm Cảnh Hưng (1 đạo).* Phong cho Hồng Nương... Công Chúa 紅 娘...公 主.7. Xã Yên Nội 安 內: 4 tr., phong cấp vào năm Cảnh Hưng (2 đạo).* Phong cho Đông Bảng... Đại Vương 東 榜...大 王; Hồng Nương... Công Chúa 紅 娘...公 主.8. Thôn Ngô Thượng 吳 上 , xã Ngô Xá 吳 舍: 11 tr., phong cấp vào các năm Cảnh Hưng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo), Bảo Hưng (1 đạo).* Phong cho Không Vị... Đại Vương 空 位...大 王; Không Hoàng... Đại Vương 空 隍... 大 王.


Phạm Đá, Phạm Dũng

5672/ 634. HƯNG YÊN TỈNH ÂN THI HUYỆN CÁC XÃ THẦN TÍCH 興 安 省 恩 施 縣 各 社 神 蹟

- 1 bản viết, 192 tr., 29.5 x 21, chữ Hán.AE.A3/2Thần tích 5 thôn, 4 xã thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

1. Xã Thổ Hoàng 土 黃: 4 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Bùi Hộ 裴 護 (Thành Hoàng Đại Vương 城 隍 大 王) triều nhà Triệu.

2. Xã Bình Trì 平 池: 12 tr., do Nguyễn Hiền sao năm 1736 về sự tích Lý Công Uẩn 李 公 薀 triều Lý.

3. Thôn Thọ Hội 壽 會 , xã Yên Canh 安 耕: 24 tr., soạn năm 1605, về sự tích Lý Thái Tổ 李太 祖.4. Xã Đặng Đinh 鄧 丁: 22 tr., do Nguyễn Hiền kiểm chứng năm 1735, gồm sự tích 2 vị thần thời Tiền Lý: Trần Lạc 陳 樂(Thiện Hóa Cư Sĩ Quảng Lạc Tối Linh Đại Vương 善 化 居 士 廣 樂 最 靈 大 王); Trần Lang 陳 郎 (Uy Hòa Nghị Lang... Đại Vương 威 和 毅 郎... 大 王).

5. Thôn Trung, xã Thổ Hoàng 土 黃: 14 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, và sự tích Cao Hiển 高 顯 (Cao Sơn Quốc Chủ... Thượng Đẳng Phúc Thần 高 山 國 主... 上 等 福 神 ).

6. Xã Cổ Lễ 古 禮: 22 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Nguyễn Tuấn 阮 俊 (Uy Dũng Linh Cảm Đại Vương 威 勇 靈 感 大 王); Nguyễn Chiêu 阮 昭 (Chiêu Ứng Đại Vương 昭 應 大 王); Nguyễn Minh 阮 明 (Minh Lang Đại Vương 明 郎 大 王).

7. Thôn Cẩm La 錦 羅 , xã La Chàng 羅 幢: 60 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 7 vị thần triều Hùng: Tạo Vương 造 王 , Đế Thích Thiên Vương 帝 釋 大 王; Nhật Quang Thiên Tử 日 光 天 子; Nguyệt Quang Thiên Tử 月 光 天 子;Diêm La Bộ Soái 閻 羅 部 帥; Phạm Đá 范 。 (Hiển Thánh Linh Thông Đại Vương 顯 聖 靈 通 大 王); Phạm Dũng 范 勇 (Thiên Quan Bảo Điện Đại Vương 天 官 保 殿 大 王).

8. Thôn Tạ, xã La Chàng 羅 幢: 22 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Quản Không Huệ Lực Tế Thế Đại Vương 管 空 惠 力 濟 世 大 王.

9. Thôn Đông Bạn 東 畔 , xã Yên Canh 安 耕: 10 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 9 vị thần thời Lý, Trần: Ứng Thiên Quảng Tế... Quý Đông Đại Vương 應 天 廣 濟... 季 東 大 王; Khai Quốc Định Bang... Đông Hải Đại Vương 開 國 定 邦... 東 海 大 王; Uy Liệt Hiển Trung... Đại Vương.威 烈 顯 忠.. 大 王; Lữ Công 呂 公 , Hốt Công 忽 公; Trích Công 摘 公;Xuyên Công 川 公; Đàm Công 潭 公; Lân Công 麟 公.


Phạm Đại Liêu

5717/ 679. KIẾN AN TỈNH AN DƯƠNG HUYỆN CÁC TỔNG QUỲNH HOÀNG, SONG MAI, NGỌ DƯƠNG, VỤ NÔNG THẦN TÍCH 建 安 省 安 陽 縣 各 總 瓊 黃 雙 梅 午 陽 務 農 神 蹟- 1 bản viết, 119 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán.AE.A12/4Thần tích 9 xã, thuộc tổng Quỳnh Hoàng 瓊 璜 , tổng Song Mai 雙 梅 , tổng Vụ Nông 務 農 và tổng Ngọ Dương 午 陽.1. Xã Cam Lộ 甘 露 , tổng Quỳnh Hoàng: 21 tr., sao lại năm Vĩnh Hựu 2 (1736); gồm sự tích Nguyễn Trung Thành 阮 忠 誠(Trung Thành Đại Vương 忠 誠 大 王); Khôn Thành Điện Dương Hoàng Bà Đại Vương 坤 城 殿 楊 皇 婆 大 王; Thục Tư Công Chúa 淑 思 公 主 và Vua Mạ Công Chúa 。 。 公 主.2. Xã Quỳnh Hoàng 瓊 璜 , tổng Quỳnh Hoàng: 16 tr., do Nguyễn Hiền sao lại năm Vĩnh Hựu 6 (1740), gồm sự tích Uy Công 威 公 (Danh Tổng Đại Vương 名 總 公 主 ); Cống Lãng Đại Vương 貢 朗 公 主 triều Trần.

3. Xã Quỳnh Cư 瓊 琚 , tổng Quỳnh Hoàng: 13 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572; gồm sự tích Lệnh Bá 令 伯 (Lệnh Bá Minh Đạt... Đại Vương 令 伯 明 達... 大 王 và Chính Trọng 正 仲 (Chính Trọng Quang Chiếu... Đại Vương 正 仲 光 照... 大 王).

4. Xã Vật Cách Thượng 物 格 上 tổng Quỳnh Hoàng: 17 tr., do Nguyễn Hiền sao lại năm Vĩnh Hựu 2 (1736); về sự tích Trung Thành Đại Vương 忠 誠 大 王 triều Lý.

5. Xã Hà Liễn 河 輦 , tổng Song Mai: 11 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hồng Công 洪 公 (Quảng Tế Cư Sĩ Hoằng Hóa Thượng Đẳng Thần 廣 濟 居 仕 弘 化 上 等 神 ) triều Lý.

6. Xã Vụ Nông 務 農 tổng Vụ Nông: 21 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Nhu Hòa Bạch Mã Thượng Đẳng Phúc Thần Đại Vương 柔 和 白 馬 上 等 福 神 大 王; Phổ Hộ Tuấn Liệt Chiêu Huân Đại Vương 普 護 駿 烈 昭 勳 大 王; Thiên Quan Linh Ứng Đại Vương 天 官 靈 應 大 王; Diêm La Phổ Đạt Đại Vương 閻 羅 溥 達 大 王; Quảng Lợi Tán Hóa Đại Vương廣 利 贊 化 大 王 triều Lý và sự tích Ngọc Thanh Uy Linh Trấn Quốc Đại Vương 玉 清 威 靈 鎮 國 大 王.

* Có một đôi câu đối và một bài văn tế.

7. Xã Dụ Nghĩa 喻 義 tổng Vụ Nông: 10 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Tế Công 濟 公 (Đương Cảnh Thành Hoàng Thiện Tế Đại Vương 當 境 城 隍 善 濟 大 王) và Bạch Hoa Tôn Linh Công Chúa Tôn Thần 白 花 尊 靈 公 主 尊 神 triều Lý.

8. Xã Ngọ Dương 午 陽 , tổng Ngọ Dương: 6 tr., về sự tích Hoàng Độ Cư Sĩ Đại Vương 皇 度 居 仕 大 王 (Hộ Quốc Hựu Dân Tích Phúc Trợ Thuận Đại Vương 護 國 佑 民錫 福 助 順 大 王).

9. Xã Đình Ngọ 亭 午 , tổng Ngọ Dương: 2 tr., về sự tích Phạm Đại Liêu Cư Sĩ Tôn Thần 范 大 僚 居 士 尊 神.


Phạm Đại vương

5122/ 84. HÀ ĐÔNG TỈNH HOÀI ĐỨC PHỦ TỪ LIÊM HUYỆN TÂY TỰU TỔNG CÁC XÃ THẦN SẮC 河 東 省 懷 德 府 慈 廉 縣 西 就 總 各 社 神 敕- 1 bản viết, 94 tr., 32 x 22.5, chữ Hán.AD. A2/ 46.Thần sắc 5 xã thuộc tổng Tây Tựu, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông.

1. Xã Hạnh Đàn 杏 壇: 46 tr., phong cấp vào các năm Đức Long (2 đạo), Dương Hòa (3 đạo), Phúc Thái (3 đạo), Khánh Đức (1 đạo), Thịnh Đức (1 đạo), Cảnh Trị (1 đạo), Dương Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hưng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo).* Phong cho Quản Giới Linh Thông Thượng Sĩ 管 界 靈 通 上 仕.2. Xã Tây Tựu 西 就: 12 tr., phong cấp vào các năm Cảnh Hưng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo).* Phong cho Tam Giang... Đại Vương 三 江...大 王.3. Xã Đan Hội 丹 會: 12 tr., phong cấp vào các năm Cảnh Hưng (1 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo), Bảo Hưng (1 đạo).* Phong Quản Giới Linh Thông Thượng Sĩ 管 界 靈 通 上 仕.4. Xã Phúc Lý 福 履: 8 tr., phong cấp vào các năm Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo).* Phong cho Tam Giang Đại Vương 三 江 大 王; Đào Đại Vương 陶 大 王; Phạm Đại Vương 范 大 王; Tịnh Hạnh... Tả Cung Phi靖 行...左 宮 妃; Thuần Mỹ... Hữu Hoàng Hậu 純 美...右 皇 后.5. Xã Hạ Hội 下 會: 16 tr., phong cấp vào các năm Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hưng (5 đạo), Chiêu Thống (1 đạo).* Phong cho Quản Giới Linh Thông Thượng Sĩ 管界 靈 通 上 仕.


Phạm Đăng Triều

5444/ 406. THÁI BÌNH TỈNH TRỰC ĐỊNH HUYỆN THỤY LŨNG TỔNG THẦN SẮC 太 平 省 直 定 縣 瑞 隴 總 神 敕- 1 bản viết, 28 tr., 32 x 22, chữ Hán.AD. A5/27Thần sắc 6 xã thuộc tổng Thụy Lũng, huyện Trực Định, tỉnh Thái Bình.

1. Xã Tử Tế 仔 細: 5 tr., phong cấp vào các năm Vĩnh Hựu (1 đạo), Cảnh Hưng (1 đạo).* Phong cho Đồng Tri Phủ Phạm Đăng Triều 同 知 府 范 登 朝; Tri Huyện Bùi Bá Du 知 縣 裴 伯 瑜 (tất cả 10 người)...; Thiên Quan Cửa Chùa... Đại Vương 天 官 廚... 大 王.2. Xã Quân Hành 均 衡: 5 tr., phong cấp vào năm Cảnh Hưng (1 đạo).* Phong cho Linh Lang... Đại Vương 靈 郎... 大 王; Thiên Quan... Đại Vương 天 官... 大 王.3. Xã Bích Kê 碧 雞: 3 tr., phong cấp vào các năm Cảnh Hưng (1 đạo).* Phong cho Thành Hoàng Đằng Liêu, Phó Mã Tướng Quân, Thiên Quan Cửa Đình Cao Minh Tứ Vị Đại Vương 城 皇 藤 僚 , 副 馬 將 軍 , 天 官 亭 , 高 明 四 位 大 王.4. Xã Bích Lũng 碧 隴 , xã Bích Kê: 3 tr., phong cấp vào năm Cảnh Hưng (1 đạo), (Hai xã chung nhau 1 đạo).* Phong cho Nam Hải Triệu Vũ úy Đà (Triệu Đà) 南 海 趙 武 尉 陀.5. Xã Bằng Trạch 憑 澤: 3 tr., phong cấp vào năm Cảnh Hưng (1 đạo).* Phong cho Nam Hải... Thái Chưởng Công Chúa 南 海... 太 掌 公 主.6. Xã An Trạch 安 宅: 7 tr., phong cấp vào năm Cảnh Hưng (3 đạo).* Phong cho Đương Cảnh Thành Hoàng... Đại Vương 當 境 城 隍... 大 王.


Phạm Định

5477/ 439. BẮC NINH TỈNH LANG TÀI HUYỆN AN TRÚ TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 北 寧 省 良 才 縣 安 住 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 25 tr., 31 x 21, chữ Hán.AE.A7/13Thần tích 2 xã thuộc tổng An Trú, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh.

1. Xã Thanh Hà 青 河: 15 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Xích Công 赤 公 (Minh Hựu Linh Thông Đại Vương明 佑 靈 通 大 王 ) và Hoàng Công 黃 公 (Thạc Thần Hộ Quốc Đại Vương 碩 神 護 國 大 王 ), là 2 trong số 7 vị công thần (Xích Công 赤 公 , Hoàng Công 黃 公 , Hồng Công 洪 公 , Phương Công 芳 公 , Mẫn Công 敏 公 , Quế Nương 桂 娘 , Dung Nương 蓉 娘 ) thời Lê Đại Hành.

2. Xã Lôi Châu 雷 洲: 10 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Phạm Định 范 定 , Hoàng La 黃 羅 và Đào Lỗ 陶 嚕thời Lý Nam Đế.


Phạm Đông Nga

5525/ 487. HÀ ĐÔNG TỈNH ĐAN PHƯỢNG HUYỆN DƯƠNG LIỄU TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 河 東 省 丹 鳳 縣 楊 柳 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 58 tr., 28 x 16, chữ Hán, có Nôm.AE.A2/9Thần tích 2 xã thuộc tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông.

1. Xã Yên Sở 安 所: 42 tr., về sự tích Lý Phục Man 李 服 蠻 (Gia Thông Đại Vương 嘉 通 大 王 ).

* Có 3 bài tựa viết năm Gia Long 3 (1804) và bài Tiền Lý Nam Đế sự tích quốc âm 前 李 南 帝 事 跡 國 音 (Nôm, thể lục bát).

2. Xã Mậu Hòa 茂 和: 14 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Phạm Đông Nga 范 東 俄 (Thái Bảo Tổng Đốc Tuấn Trục Đông Nga... Đại Vương 太 保 總 督 俊 軸 東 俄... 大 王) triều Đinh.


Phạm Hiển

5984/ 946. THÁI BÌNH TỈNH TRỰC ĐỊNH HUYỆN THỤY LŨNG TỔNG THẦN TÍCH 太 平 省 直 定 縣瑞 隴 神 蹟- 1 bản viết, 96 tr., 31 x 21, chữ Hán.AE.A5/7Thần tích 5 xã, thuộc tổng Thụy Lũng, huyện Trực Định, tỉnh Thái Bình.

1. Xã Bích Kê 碧 鸂: 28 tr., gồm sự tích Triệu Vũ Hoàng Đế (Triệu Đà) và Hoàng Hậu Trình Thị Lan Nương, cùng mối tình Trọng Thủy - Mỵ Nương; sự tích Hiển Đạt Tôn Thần 顯 達 尊神 , họ Phạm , húy Hiển , người bản xã, có công giúp Lê Lợi đánh giặc Minh.2. Xã An Chỉ 安 址: 22 tr., về sự tích Thiên Quan Cửa Chùa Tế Đại Vương 天 官 。 廚 大 王; Thiên Quan Cửa Chùa Áng Đại Vương 天 官 。 廚 盎 大 王 Thạch Thần Linh Ứng Đại Vương 石 神 靈 應 大 王; Linh Lang Chủ Sớ Đại Vương 靈 郎 主 疏 大 王; Thanh Kiền Đại Vương 青 虔 大 王; Lã Trục Đại Vương 呂 逐 大 王; và Cao Thiên Hoàng Bà Đại Vương 高 天 皇 婆 大 王 thời Hùng Duệ Vương.

3. Xã Quân Hành 均 衡: 16 tr., do Nguyễn Hiền chép lại, về sự tích Lang Công 郎 公 (Thiên Quan Linh Lang Chủ Sớ Đại Vương 天 官 靈 郎 大 王) và Tùng Công 松 公 (Thiên Quan Cửa Chùa Áng Tùng Đại Vương 天 官 。 廚 盎 松 大 王) thời 12 sứ quân.

4. Xã Tử Tế 仔 細: 16 tr., do Nguyễn Hiền chép lại về sự tích 2 vị thần song sinh là Trù Công 疇 公 (Đương Cảnh Thành Hoàng Đại Vương 當 境 城 隍 大 王), và Thuận Nương 順 娘 (Tuyên Hòa Trinh Thuận... Công Chúa 宣 和 貞 順... 公 主 ) thời Trưng Nữ Vương.

5. Xã An Trạch 安 宅: 14 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thanh Kiền 青 虔 (Thanh Kiền Đại Vương 青 虔 大 王); Thuộc Công 屬 公 (Bạch Thuộc Đại Vương 白 屬 大 王); Tống Công 宋 公 (Tống Thánh Đại Vương 宋 聖 大 王) thời Lê Lợi.


Phạm Tùng, Phạm Túc, Phạm Hòa


5896/ 858. SƠN TÂY TỈNH PHÚC THỌ HUYỆN CAM THỊNH TỔNG YÊN THỊNH XÃ THẦN TÍCH 山 西 省 福 壽 縣 甘 盛 總 安 盛 社神 蹟- 1 bản viết, 26 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán.AE.A10/2Thần tích xã Yên Thịnh thuộc tổng Cam Thịnh, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây, Trần Lan 陳 蘭 , Trần Bảo 陳 寶 , Thạch Khanh 石 卿 , Thổ Lệnh 土 令 triều Lý Nam Đế; và sự tích Phạm Tùng 范 松 (Thông Minh Chính Trực Đại Vương 聰 明 正 直 大 王); Phạm Túc 范 肅 (Hiển Linh Phù Huệ Đại Vương 顯 靈 夫 惠 大 王); và Phạm Hòa 范 和 (Tá Bộ Diệu Cảm Đại Vương 佐 部 耀 感 大 王) triều Thục, sao lại vào năm 1914.


+ Phạm Trung

5897/ 859. SƠN TÂY TỈNH PHÚC THỌ HUYỆN CỰU ĐÌNH TỔNG CÁC XÃ CẨM ĐÌNH YÊN ĐÌNH THẦN TÍCH 山 西 省 福 壽 縣 舊 亭 總 各 社 錦 亭 安 亭 神 蹟- 1 bản viết, 17 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán.AE.A10/3Thần tích 2 xã thuộc tổng Cựu Đình, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây.

1. Xã Cẩm Đình 錦 亭: 10 tr., soạn năm 1829, về sự tích Thổ Lệnh 土 令 (Trung Dực Vũ Liệt... Đại Vương 忠 烈 武 烈... 大 王).

2. Xã Yên Đình 安 亭: 6 tr., gồm sự tích Phạm Trung 范 忠 (Phổ Huệ Đại Vương 普 惠 大 王); Phạm Túc 范 肅 (Hiển Ứng Đại Vương 顯 應 大 王) và Phạm Hòa 范 和 (Phù Vận Đại Vương 浮 運 大 王); và sự tích Thổ Lệnh 土 令 , Thạch Khanh 石 卿 , triều Lý Nam Đế.


Phạm Hạp (triều Đinh)

5771/ 733. NAM ĐỊNH TỈNH VỤ BẢN HUYỆN ĐỒNG ĐỘI TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 南 定 省 務 本 縣 同 隊 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 222 tr., 32 x 22, chữ Hán.AE.A15/28Thần tích 2 thôn, 2 xã thuộc tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

1. Xã Châu Bạc 珠 泊: 20 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Vũ Nghị 武 毅 (Đương Cảnh Thành Hoàng Vũ Nghị Đại Vương 當 境 城 隍 武 毅 大 王).

2. Thôn Thượng, xã Trang Nghiêm 莊 嚴: 78 tr., gồm sự tích 2 vị thần triều Lý: Lê Dũng 黎 勇 (Dũng Mãnh Uy Linh Hiển Ứng Đại Vương 勇 猛 威 靈 顯 應 大 王), Lê Sĩ 黎 仕 (Thái Thượng Thượng Sĩ Đại Vương 綵 上 尚 仕 大 王) do Nguyễn Bính soạn năm 1735 (?); 3 vị Đại Vương triều Trưng Vương do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Đô Thống Đại Vương 都 統 大 王; Chiêu Hiển Đại Vương 昭 顯 大 王; Tam Lang Đại Vương 三 郎 大 王; 3 vị thần triều Hùng do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Đông Hải Đại Vương 東 海 大 王; Trung Thành Phổ Tế Đại Vương 忠 誠 普 濟 大 王; Hoàng Tử Câu Mang Đại Vương 皇 子 勾 茫 大 王; và sự tích Cao Lỗ 皋 魯 (Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần Đại Vương 大灘 都 魯 石 神 大 王) thời An Dương Vương.

3. Thôn Hạ, xã Trang Nghiêm: 56 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Trần: Trần Minh Phúc 陳 明 福 (Minh Phúc Đại Vương 明 福 大 王); Trần Hải 陳 海 (Minh Hải Đại Vương 明 海 大 王); 2 vị thần triều Đinh: Đinh Nga 丁 峨(Nga Sơn Hiển Linh Đại Vương 峨 山 顯 應 大 王); Phạm Hạp 范 盍 (Linh Ứng Đại Vương 靈 應 大 王).

4. Xã Vân Cát 雲 葛: 66 tr., về sự tích Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主.

* Có bài văn chầu thần soạn bằng văn Nôm.




Phạm Kha (triều Lý)

5774/ 736. NAM ĐỊNH TỈNH VỤ BẢN HUYỆN PHÚ LÃO TỔNG CÁC XÃ THÔN THẦN TÍCH 南 定 省 務 本 縣 富 老 總 各 社村 神 蹟- 1 bản viết, 146 tr., 32 x 22, chữ Hán.AE.A15/31Thần tích 5 thôn, 1 xã thuộc tổng Phú Lão, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

1. Thôn Thọ Trường 壽 長: 40 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Bạch Mã Linh Lang Đại Vương 白 馬 靈 郎 大 王 triều Hùng; và sự tích 2 vị thần triều Thục: Cao Đê Đại Vương 。 。 大 王, Đãi Chân Đại Vương 待 。 大 王.

2. Thôn Kênh Đào 涇 陶: 24., gồm sự tích 2 vị thần triều Đinh: Lê Khai 黎 開 (Khai Thiên Đại Vương 開 天 大 王); Quế Hoa Công Chúa 桂 花 公 主.3. Xã Đống Lương 棟 樑: 12 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Nguyễn Trấn 阮 鎮 (Đô Thống Trấn Quốc Đại Vương 都 統 鎮 國 大 王).

4. Thôn Phong Cốc 豐 穀: 16 tr., gồm sự tích: Phạm Kha 范 哿 (Anh Kha Ngoại Lang... Đại Vương 英 哿 外 郎... 大 王) triều Đinh, do Nguyễn Bính soạn năm 1572; Lương Báo 梁 報 (Uy Linh Hiển Ứng Thần 威 靈 顯 應 神 ) triều Lý.

5. Thôn Hạ Xá 下 舍: 30 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Lã Nam Đế 呂 南 帝 và 2 vị thần triều Trần: Đô Thống Ứng Quốc... Đại Vương 都 統 應 國... 大 王, Thượng Vị Cao Quý... Đại Vương 尚 位 高 貴... 大 王.

6. Thôn Liên Xương 蓮 昌: 22 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần núi Tản Viên triều Hùng: Nguyễn Tùng 阮 松 (Tản Viên Sơn Thánh 傘 圓 山 聖 ); Nguyễn Hiển 阮 顯 (Cao Sơn Đại Vương 高 山大 王); Nguyễn Sùng 阮 崇 (Quý Minh Đại Vương 貴 明 大 王).


Phạm Khang, Phạm Nguyên (triều Tiền Lý)


5754/ 716. NAM ĐỊNH TỈNH MỸ LỘC HUYỆN CAO ĐÀI TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 南 定 省 美 祿 縣 高 臺 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 32 tr., 32 x 22, chữ Hán.AE.A15/10Thần tích 1 thôn, 2 xã thuộc tổng Cao Đài, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.

1. Xã An Cổ 安 古: 14 tr., gồm thần tích 2 anh em họ Phạm đời Lý: Phạm Nguyên 范 元 (Cao Thiên Đại Vương 高 天 大 王), Phạm Khang 范 康 (Câu Mang Đại Vương 勾 芒 大 王).

2. Thôn Diên, xã Lương Xá 良 舍: 4 tr., về sự tích Quý Minh Đông Hải Đại Vương 貴 明 東 海 大 王 triều Hùng.

3. Xã Vạn Đồn 萬 屯: 12 tr., gồm sự tích 2 vị Đại Vương triều Lý: Nguyễn Trung 阮 忠 (Nội Tấu Đại Vương 內 奏 大 王), Nguyễn Thành 阮 誠 (Ngoại Tấu Đại Vương 外 奏 大 王).


5749/ 711. NAM ĐỊNH TỈNH HẢI HẬU NINH NHẤT TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 南 定 省 海 後 縣 寧 一 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 118 tr., 32 x 22, chữ Hán.AE.A15/6Thần tích 1 trại, 3 ấp, 2 xóm thuộc tổng Ninh Nhất, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.

1. Ấp An Lễ 安 禮: 26 tr., gồm sự tích Hoàng tử Minh Lang 皇 子 明 郎 (Minh Lang Uy Linh Đại Vương Thượng Đẳng Tôn Thần 明 郎 威 靈 大 王 上 等 尊 神 ) triều Hùng; Hoàng Tử Linh Lang 皇 子 靈 郎 (Linh Lang Đại Vương 靈 郎 大 王) triều Lý.

2. Ấp An Nghiệp 安 業: 18 tr., do Nguyễn Hiền viết năm 1740, gồm sự tích 4 vị Đại Vương nhà họ Cao triều Hùng: Cao Mang Đại Vương 高 茫 大 王; Minh Giang Đại Vương 明 江 大 王; Minh Khê Đại Vương 明 溪 大 王; Minh Cục Đại Vương 明 局 大 王.

3. Xóm An Nhân 安 仁: 28 tr., do Nguyễn Hiền viết năm 1740, gồm sự tích 4 vị Đại Vương nhà họ Cao và 4 vị thủy thần, 1 vị sơn thần triều Hùng: Cao Mang Đại Vương 高 茫 大 王; Minh Giang Đại Vương 明 江 大 王, Minh Khê Đại Vương 明 溪 大 王, Minh Cục Đại Vương 明 局 大 王; Thủy Hải Ô Long Đại Vương 水 海 烏 龍 大 王; Chiêu Huy Linh Ứng Đại Vương 昭 徽 靈 應 大 王.

4. Ấp An Phong 安 豐: 20 tr., gồm sự tích Nguyễn Tuấn 阮 俊 (Quý Minh Đông Hải Đại Vương 貴 明 東 海 大 王) triều Hùng; Nguyễn Trung 阮 忠 (Nội Tấu Đại Vương 內 奏 大 王) triều Lý; Nguyễn Thành 阮 誠 (Ngoại Tấu Đại Vương 外 奏 大 王) triều Lý; Lê Ngọc Tảo 黎 玉 藻 (Lương Quốc Quốc Trưởng Công Chúa Lê Thị Ngọc Tảo Phúc Thần 梁 國 國 長 公 主 黎 氏 玉 藻 福 神 ).

5. Xóm An Trạch 安 宅: 20 tr., gồm sự tích Triệu Quang Phục 趙 光 復 (Triệu Việt Vương Hoàng Đế 趙 越 王 皇 帝), và sự tích 2 anh em họ Phạm, do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Phạm Nguyên 范 元 (Cao Thiên Đại Vương 高 天 大 王); Phạm Khang 范 康 (Câu Mang Đại Vương 勾 芒 大 王); Dầm Đề Đại Vương大 王.

6. Trại An Lạc 安 樂: 4 tr., về sự tích Lê Lai Đại Vương 黎 萊 大 王 triều Lê.


Phạm Lân (triều Lê)


5832/ 794. NINH BÌNH TỈNH YÊN MÔ HUYỆN QUẢNG PHÚC TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 寧 平 省 安 謨 縣 廣 福 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 110 tr., 32 x 22, chữ Hán.AE.A4/37Thần tích 1 giáp, 2 thôn, 2 xã thuộc tổng Quảng Phúc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

1. Thôn Yên Thái 安 泰 , xã Quảng Phúc 廣 福: 14 tr., gồm sự tích 3 vị thần triều Hùng: Anh Vũ Uy Linh Ngọ Vương 英 武 威 靈 午 王; Hiển Ứng Hộ Dân Ngọ Vương 顯 應 護 民 午 王; Phu Cảm Phổ Hóa Ngọ Vương 孚 感 普 化 午 王 , và Phạm Lân 范 麟triều Lê, Lê Khắc Nghệ Hài 黎 克 詣 諧 triều Lê.

2. Giáp Vân Mộng 雲 夢 , xã Quảng Phúc: 2 tr., về sự tích Nguyễn Phục 阮 復 triều Lê.

3. Thôn Phúc Lại 福 賴 , xã Quảng Phúc: 16 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Thượng Đẳng Tối Linh Đệ Nhất Triệu Đại Hiển Hựu Hoàng Đế 上 等 最 靈 第 一 趙 代 顯 佑 皇 帝.

4. Xã Khương Dụ 羌 裕: 72 tr., về sự tích Triệu Quang Phục 趙 光 復 (Triệu Vương Hoàng Đế 趙 王 皇 帝); Liễu Hạnh Công Chúa 柳 杏 公 主; Duy Tiên Công Chúa 維 仙 公 主; Quế Hoa Công Chúa 桂 花 公 主; Thượng Ngạn Lê Mại Đại Vương 上 岸 黎 邁 大 王; Đinh Dung Công Chúa 釘 容 公 主; Xuân Tông Công Chúa 春 宗 公 主; Trưởng Minh Ngọ Đại Vương 長 明 午 大 王; Thứ Minh Ngọ Công Chúa 次 明 午 公 主; Quý Minh Ngọ Đại Vương 貴 明 午大 王; Huệ Nương Công Chúa 惠 娘 公 主; Tĩnh Nương Công Chúa 靜 娘 公 主; Tân Nương Công Chúa 嬪 娘 公 主.5. Xã Cổ Đà 古 陀: 4 tr., gồm sự tích Lôi Công Tôn Thần 檑 公 尊 神 (Lâm Lịch Linh Ứng... Đại Vương 林 靂 靈 應... 大 王); Nguyễn Phục 阮 復 (Phổ Thiên Đông Hải Thanh Đế Tôn Thần 普 天 東 海 青 帝 尊 神); Mỹ Liễu Công Chúa 美 柳 公 主 (Hiển Thần Hựu Bảo Dân... Đại Vương 顯 神 佑 保 民... 大 王).


Phạm Lang Công (Thời Hùng vương)

5494/ 456. BẮC NINH TỈNH TỪ SƠN PHỦ ĐÔNG NGÀN HUYỆN HỘI PHỤ TỔNG CÁC XÃ THÔN THẦN TÍCH 北 寧 省 慈 山 府 東 岸 縣 會 阜 總 各 社刌 神 蹟- 1 bản viết, 72 tr., 31 x 21, chữ Hán.AE.A7/3Thần tích 4 thôn thuộc 2 xã, tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh.

1. Thôn Thị, xã Danh Lâm 名 林: 16 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Kỳ Công 奇 公 (Đào Tướng Quân... Đại Vương 陶 將 軍... 大 王) và Phương Nương 芳 娘 (Phương Dung Công Chúa 芳 蓉 公 主 ) thời Trưng Nữ Vương.

2. Thôn Long Tửu 龍 酒 , xã Đông Ngạn 東 岸: 14 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Khang Công 康 公 (Bảo Khang Đại Vương 保 康 大 王 ); Trần Khiết Công 陳 潔 公 (Minh Khiết Đại Vương 明 潔 大 王 ) và Phạm Lang Công 范 郎 公(Quốc Lang Đại Vương 國 郎 大 王 ) thời Hùng Huy Vương.

3. Giáp Thượng, thôn Bắc Cầu 北 梂 , xã Đông Ngạn 東 岸: 18 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Minh Công明 公 (Minh Tự Đại Vương 明 字 大 王 ) thời Hùng Duệ Vương, được Nga Hoàng Công Chúa 娥 皇 公 主 âm phù đánh giặc Thục.

4. Giáp Hạ, thôn Bắc Cầu 北 梂 , xã Đông Ngạn 東 岸: 20 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Bảo Công 保 公(Đương Cảnh Thành Hoàng Bảo Trung... Đại Vương 當 境 城 隍 保 忠... 大 王), Mỹ Công 美 公 (Đương Cảnh Thành Hoàng Minh Khiết... Đại Vương 當 境 城 隍 明 潔... 大 王) và Phương Nương 芳 娘 (Ý Hạnh Phu Nhân Tôn Công Chúa 懿 行 夫 人 孫 公 主 ) thời Lý Nam Đế từng âm phù Lê Đại Hành đánh quân Tống.


Phạm Thọ Khảo (triều Lê), Phạm Minh

5639/ 601. HẢI DƯƠNG TỈNH TỨ KỲ HUYỆN CÁC TỔNG XÃ THÔN THẦN TÍCH 海 陽 省 四 岐 縣 各 總 社 村 神 蹟

- 1 bản viết, 176 tr., 31 x 21, chữ Hán. AE.A6/25Thần tích 3 thôn, 10 xã thuộc 4 tổng, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.

* Tổng Mặc Xá 墨 舍:1. Thôn Thượng, xã Vạn Tải 萬 載: 12 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Xuân Công 椿 公 (Bản Phủ Thành Hoàng... Đại Vương 本 府 城 隍... 大 王) thời Lê Tương Dực.

2. Thôn Trúc Văn 竹 文 , xã Vạn Tải 萬 載: 16 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Cao Sơn 高 山 (Bản Cảnh Thành Hoàng... Đại Vương 本 境 城 隍... 大 王) và Quí Minh 貴 明 (Đương Cảnh Thành Hoàng... Đại Vương 當 境 城 隍... 大 王) thời Hùng Duệ Vương.

* Tổng Ngọc Lâm 玉 林:1. Xã Nghi Khê 沂 溪: 10 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Phúc Công 福 公 (Hộ Phúc Uy Đức Linh Ứng Đại Vương 護 福 威 德 靈 應 大 王) thời Lê Đại Hành.

2. Xã Ngọc Lâm 玉 林: 16 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Cao Sơn 高 山 (Cao Sơn Linh Không Đại Vương高 山 靈 空 大 王) thời Hùng Duệ Vương.

3. Thôn Đồng Bình 同 平 , xã La Xá 羅 舍: 26 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Bản Cảnh Thành Hoàng Chàng Nữu Nhị Đại Vương 本 境 城 隍 撞 杻大 王, âm phù Lê Đại Hành đánh giặc; sự tích Linh Am 靈 庵 (Linh Am Hiển Ứng Đại Vương 靈 庵 顯 應 大 王), âm phù Lý Nhân Tông đánh Chiêm Thành; và sự tích Phạm Thọ Khảo 范 壽 考 , đỗ Tiến sĩ khoa Tân Mùi, niên hiệu Sùng Khang 6 (1571).

4. Xã La Xá 羅 舍: 22 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Thành Hoàng Đôn Ngưng Chi Thần 城 隍 敦 凝 之 神, phù giúp Trưng Nữ Vương đánh Tô Định; và sự tích Phạm Minh 范 明.5. Xã Quảng Bí廣 秘: 10 tr., do Lê Tung soạn năm 1470, về sự tích Nguyễn Huân 阮 勛 (Nguyễn Huân Hiển Ứng Anh Linh Đại Vương 阮 勛 顯 應 英 靈 大 王) và Nguyễn Kính 阮 敬 (Nguyễn Kính Hiển Hựu Anh Linh Đại Vương 阮 敬 顯 佑 英 靈 大 王) thời Lê Thánh Tông.

* Tổng Phan Xá 潘 舍 1. Xã Thiết Tái 鐵 塞: 8 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Quang Công 光 公 (Hoàng Thái Tử... Đại Vương 皇 太 子... 大 王), 1 trong 8 Hoàng tử của Lý Thánh Tông.

2. Xã Bình Lãng 平 朗 , và xã Thái Lãng 泰 朗: 12 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Cung Công 恭 公 (Hướng Thiện Cư Sĩ Đại Vương 向 善 居 士 大 王), Hoằng Công 弘 公 (Thiên Bồng... Đại Vương 天 蓬... 大 王), và Quảng Công 廣 公(Cương Nghị... Đại Vương 剛 毅... 大 王) thời Lý Nam Đế.

3. Thôn Đông Xá東 車 , xã Lũy Dương 陽: 12 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Triệu Nương 趙 娘 (Chi Dung Trinh Thục Hoàng Thái Hậu Công Chúa 芝 蓉 貞 淑 皇 太 后 公 主 ), âm phù Trần Nhân Tông đánh quân Nguyên.

* Tổng Mỹ Xá 美 舍:1. Xã Liêu Xá 寥 舍: 8 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Quảng Công 廣 公 (Thân Hưu Tích Khánh... Đại Vương 親 休 積 慶 公 主 ) thời Trần Thái Tông, được Khổng Lộ Thiền Sư 孔 路 禪 師 trụ trì chùa bản xã ban pháp thuật, đánh giặc Ai Lao (?)

2. Xã Ngọc Lặc 玉 勒: 14 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Xích Công 赤 公 (Đức Uy... Đại Vương 德 威... 大 王) và Mỹ Công 美 公 (Diệu Vũ... Đại Vương 妙 武... 大 王) thời Lê Thái Tổ.

3. Xã Lạc Dục 樂 育: 10 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Vũ Thị Đức 武 氏 德 (Dục Đức Thánh Nương Công Chúa 毓 德 聖 娘 公 主 ) phò giúp Lê Thái Tổ đánh quân Minh.



Phạm Nghi (triều Lê)

5673/ 635. HƯNG YÊN TỈNH KHOÁI CHÂU PHỦ ĐÔNG AN HUYỆN CÁC XÃ THẦN TÍCH 興 安 省 快 卅 府 東 安 縣 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 356 tr., 29.5 x 21, chữ Hán.AE.3/4Thần tích 1 thôn, 18 xã thuộc huyện Đông An, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

1. Xã Mễ Sở 米 所: 10 tr., về sự tích Lý Phục Man 李 服 蠻 triều Lý.

2. Xã Phù Sa 浮 沙: 14 tr., về sự tích Đức Vua Lý Cửa Cống... Trung Đẳng Thần。 。 。 。 中 等 神.3. Xã Phương Trù 芳 幬: 20 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm 3 vị thần triều Hùng: Chử Công Đồng Tử Chí Thánh... Thượng Đẳng Thần 褚 公 童 子 至 聖... 上 等 神; Tiên Dung Công Chúa Thiên Tiên... Thượng Đẳng Thần 仙 容 公 主 天 仙... 上 等 神; Nội Trạch Tây Cung Tiên Nữ... Thượng Đẳng Thần 內 澤 西 宮 仙 女... 上 等 神.4. Xã Ninh Tập 寧 習: 22 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 7 anh em họ Đinh triều Hùng: Linh Lang Lương Vương 。 。 梁 王; Linh Lang Hải Vương 。 。 海 王; Linh Lang Lung Vương 。 。 瀧 王; Linh Lang Lôi Vương 。 。 。 王;Sơn Vương 山 王; Nhạc Vương 岳 王; Lĩnh Vương 嶺 王.6. Xã Sài Thị 柴 市: 26 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Hùng: Thánh Thông Linh Ứng Đại Vương 聖 聰 靈 應 大 王; Hiển Minh Cảm Ứng Đại Vương 顯 明 感 應 大 王.

7. Xã Đồng Lý 童 里: 32 tr., gồm sự tích 5 vị Đại Vương triều Hùng, do Nguyễn Bính soạn năm 1572: Minh Lang Trợ Quốc... Đại Vương 明 郎 助 國... 大 王; Sát Hải Phù Quốc... Đại Vương 察 海 浮 國... 大 王; Nàng Ả Quế Hoa... Phu Nhân 娘 婀 桂 花... 夫 人; Nàng Hai Quỳnh Hoa... Phu Nhân 瓊 花... 夫 人; Nàng Ba Mai Hoa... Phu Nhân 梅 花... 夫 人; và Sĩ Nhiếp 士 燮 (Lỗ Quốc Đại Vương 魯 國 大 王).

8. Xã Mai Xá 梅 舍: 24 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 5 vị thần triều Hùng: Trung Thành Đại Vương 忠 誠 大 王; Cao Mang Đại Vương 高 茫 大 王; Đổng Vĩnh Đại Vương 董 永 大 王; Mộc Phàm Đại Vương 木 凡 大 王; Trấn Lại Đại Vương 鎮 賴 大 王.

9. Xã Hoàng Xá 黃 舍: 18 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 4 vị thần triều Trần: Liễu Sĩ 柳 仕 (Trấn Quốc Linh Thụy... Đại Vương 鎮 國 靈 瑞... 大 王); Liễu Chính 柳 政 (Thụy Tường Thông Minh... Đại Vương 瑞 祥 聰 明... 大 王); Liễu An 柳 安 (Nguyên Soái Nghiêm Túc... Đại Vương元 帥 嚴 肅... 大 王); Liễu Huệ 柳 惠 (Khánh Hựu Dụ Dân... Đại Vương 慶 佑 裕 民... 大 王).

10. Xã Phó Nham 傅 岩: 8 tr., về sự tích Thiên Phụ Truyền Thánh Thiên Quan Lỗ Vương Tối Linh Đại Vương 天 輔 傳 聖 天 官 魯 王 大 王.

11. Xã Đào Viên 桃 園: 42 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Lý: Ngũ Nhạc Đại Vương 五 岳 大 王, Nàng Mây Công Chúa公 主; 1 vị thần triều Hùng: Hồng Tế Thảng Sĩ Linh Lang Đại Vương 紅 濟 淌 。 。 。 大 王; 1 vị thần triều Đinh: Đệ Nhị Cung Phi Nhĩ Nương 第 二 宮 妃 你 娘 (Hoàng Hậu Cung Tề Tống Phu Nhân 皇 后 宮 齊 宋 夫 人 ).

12. Xã Yên Viên 安 員: 22 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, (văn bản viết nhầm là Nguyễn Hiền), gồm sự tích 2 vị thần triều Trưng Vương: Chính Trực Linh Ứng Đại Vương 正 直 靈 應 大 王; Đức Minh Hiển Hựu Đại Vương 德 明 顯 佑 大 王.

13. Xã Bằng Hồ 憑 湖: 14 tr., do Nguyễn Hiền kiểm chứng năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Kinh Dương Vương: Bảo An Chính Trực... Trung Đẳng Thần 保 安 正 直... 中 等 神; Thủy Tộc Bình Điềm... Trung Đẳng Thần 水 族 平 恬... 中 等 神;Trừng Trạm Uông Nhuận... Trung Đẳng Thần 澄 湛 汪 潤... 中 等 神; và sự tích Pháp Vũ Đại Thánh 法 雨 大 聖 , sao năm 1781.

14. Xã Lưu Xá 留 舍: 20 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 4 vị thần triều Trần: Minh Chương Quốc Chức Đại Vương 明 章 國 職 大 王; Hiền Ân Kiệt Nghĩa Đại Vương 賢 恩 傑 義 大 王; Linh Ứng Hiển Kiến Đại Vương 靈 應 顯 見 大 王; Đệ Thất Thanh Uy Anh Nga Công Chúa 第 七 青 威 英 娥 公 主.15. Thôn Lan Đình 蘭 亭 , xã Quan Xuyên 官 川: 30 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 2 vị thần triều Lê: Phạm Nghi 范 儀 (Linh Ứng Đại Vương 靈 應 大 王); Vũ Chiếu 雨 詔 (Quản Chiếu Đại Vương 管 詔 大 王).

16. Xã Trung Châu 中 州: 6 tr., về sự tích vị thần họ Nguyễn (không rõ tên, con của Nguyễn Nê ) thời 12 sứ quân.

17. Xã Mạn Xuyên 慢 川: 6 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Nguyễn Minh 阮 明 (Chiêm Thành Cửa Ải Đại Vương 占 城 。 隘 大 王).

18. Xã Cốc Phong 豐: 6 tr., về sự tích Diệu Hương Công Chúa 妙 香 公 主 triều Lý.

19. Xã Mạn Trù 慢 幬: 14 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Trung Tông Hoàng Đế 中 宗 皇 帝, con trai thứ 3 của vua Lê Đại Hành.


Phạm Nghiêm (triều Lý)

5704/ 666. HƯNG YÊN TỈNH YÊN MỸ HUYỆN LIÊU XÁ TỔNG LIÊU XÁ XÃ VĂN XÁ, VŨ XÁ NHỊ THÔN THẦN TÍCH 興 安 省 安 美 縣 遼 舍 總 遼 舍 社 文 舍 武 舍 二 村 神 蹟- 1 bản viết, 18 tr., 29.5 x 21, chữ Hán.AE.A3/37Thần tích thôn Văn Xá và thôn Vũ Xá thuộc xã Liêu Xá, tổng Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, sao năm 1859, về sự tích Phạm Nghiêm 范 嚴 (Sùng Khánh Đại Vương 崇 慶 大 王) triều Lý.


Phạm Ngọc Trân

5160/ 122. HÀ ĐÔNG TỈNH TỪ LIÊM HUYỆN PHƯƠNG CANH TỔNG CÁC XÃ THÔN THẦN SẮC 河 東 省 慈 廉 縣 芳 粳 總 各 社 村 神 敕- 1 bản viết, 156 tr., 32 x 22.5, chữ Hán.AD. A2/47Thần sắc 3 thôn và 2 xã thuộc tổng Phương Canh, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông.

1. Thôn Hòe Thị 槐 市, xã Phương Canh 芳 粳: 64 tr., phong cấp vào các năm Vĩnh Thịnh (3 đạo), Quang Trung (3 đạo), Cảnh Thịnh (3 đạo).* Phong cho Cổ Mục Phán Quan Tây Nhạc Đại Vương 古 目 判 官 西 岳 大 王; Trinh Thuận... Công Chúa 貞 順...公 主; Gia Hạnh... Công Chúa 家 行...公 主.2. Xã Phú Mỹ 富 美: 22 tr., phong cấp vào các năm Cảnh Hưng (6 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo).* Phong cho Diêm La Đại Vương 閻 羅 大 王; ả Lã Nàng Đê 婀 呂 娘 低; Phương Dung Hoàng Thái Hậu 芳 容 皇 太 后; Sắc cho Nguyễn Quang Minh 阮 光 明 làm chức Tham nghị và chức Thái bộc tự khanh.3. Thôn Ngọc Mạch 玉 陌 , xã Phương Canh: 24 tr., phong cấp vào các năm Dương Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Thịnh Đức (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hưng (4 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo).* Phong cho Lã Nam Đế 呂 南 帝; Phương Dung Hoàng Hậu 芳 容 皇 后 Phạm Ngọc Trân Công Chúa 范玉 珍 公 主. Sắc cho Đô Đốc Thái Bảo Lãng Trung Hầu 朗 忠 候 và Thượng Trụ Quốc Nguyễn Danh Thưởng 阮 名 賞 làm chức Thái phó; cho Lãng Trung Hầu húy là Đôn Mẫn làm chức Thượng trụ quốc thượng trật.4. Thôn Thị Cấm 侍 禁, xã Phương Canh: 30 tr., phong cấp vào các năm Vĩnh Thịnh (2 đạo), Vĩnh Khánh (3 đạo), Cảnh Hưng (4 đạo), Chiêu Thống (2 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (2 đạo).* Phong cho Tây Nhạc Đại Vương 西 岳 大 王; Hoàng Hậu Gia Hạnh... Công chúa 皇 后 家 行 公 主; Tả Phi Trinh Thuận... Công Chúa 左 妃 貞 順 公 主.5. Xã Miêu Nha:苗 芽 14 tr., phong cấp vào các năm Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hưng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo).* Phong cho Thông Linh... Đại Vương 通 靈...大 王.


Phạm Minh (Thời An Dương Vương), Phạm Nhu

5554/ 516. HÀ ĐÔNG TỈNH SƠN LÃNG HUYỆN THÁI BÌNH TỔNG ĐINH XUYÊN XÃ THẦN TÍCH 河 東 省 富 川 縣 太 平 總 丁 川 社 神 蹟- 1 bản viết, 22 tr., 29.5 x 21, chữ Hán.AE.A2/55Thần tích xã Đinh Xuyên thuộc tổng Thái Bình, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Đông, do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích 3 vị thần: Nguyễn Quang 阮 光 (Hoằng Tế Thông Cảm Đại Vương 弘 濟 通 感 大 王) triều Hùng, Phạm Thông 范 通(Thông Thánh Minh Đạt... Đại Vương 通 聖 明 達... 大 王) triều Thục và Phạm Nhu 范 柔 (Nhu Thánh An Định... Đại Vương 柔 聖 安 定... 大 王). Có sự tích Quế Hoa Công Chúa 桂 花 公 主 triều Hồ, do Nguyễn Hiền viết năm 1737.


Phạm Phúc, Phạm Sùng (có thể còn là Phạm cư sĩ, thời Lý)


5593/ 555. HÀ NAM TỈNH DUY TIÊN HUYỆN TIÊN XÁ TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 河 南 省 維 先 縣先 舍 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 84 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán.AE.A13/13Thần tích 3 thôn, 2 xã thuộc tổng Tiên Xá, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.

1. Xã Ngô Xá 吳 舍: 19 tr., soạn năm 1572, về sự tích Không Vị Đại Vương 空 位 大 王; Không Hoàng Đại Vương 空 隍 大 王, triều Trần.

2. Xã Đồng Bào 同 胞: 12 tr., gồm sự tích Linh Lang Vương 靈 郎 王 , triều Lý; và sự tích Linh Lang Vương 靈 郎 王 , triều Trần.

3. Thôn Trung, xã Tiên Xá 先 舍: 14 tr., về sự tích Sùng Công 崇 公 (Phạm Tiên Sinh Đông Hải Đại Vương 范 先 生 東 海 大 王), triều Lý.

4. Thôn Xa Lao 車 牢 , xã Tiên Xá 先 舍: 32 tr., về sự tích Phạm Phúc 范 福 (Trấn Quốc Đại Vương 鎮 國 大 王).

5. Thôn Đoài, xã Tiên Xá 先 舍: 5 tr., về sự tích Đoàn Thượng 段 尚 (Đoàn Tướng Quân 段 將 軍 ).


Phạm Tử Nghi (Phạm Thành) - (triều Mạc)

Phạm quý nha phụ quốc thượng tể đại tướng quân đại



5720/ 682. KIẾN AN TỈNH AN DƯƠNG HUYỆN KIỀU YÊU TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 建 安 省 安 陽 縣 嬌 夭 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 67 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán.AE.A12/3Thần tích 1 thôn 3 xã, thuộc tổng Kiều Yêu, huyện An Dương, tỉnh Kiến An.

1. xã Tri Yếu 知 要: 19 tr., do Nguyễn Hiền sao lại năm Vĩnh Hựu 2 (1736); gồm sự tích Cao Sơn Đại Vương 高 山 大 王, Quý Minh Đại Vương 貴 明 大 王 và Chàng Rồng Đại Vương 。 。 大 王 triều Trưng Vương.

2. Thôn Văn Xá 文 舍 , xã Kiều Yêu Thượng: 9 tr., về sự tích Phạm Thành 范 誠 (Nam Hải Đông Nguyên Soái 南 海 東 元 帥 ).

3. Xã Kiều Yêu Đông 嬌 夭 東: 16 tr., do Nguyễn Bính soạn, sao lại năm Vĩnh Hựu 2 (1736); về sự tích Thản Công 坦 公 (Uy Mẫn Công 威 敏 公 , Thổ Địa Linh Ứng Đại Vương 土 地 靈 應 大 王) triều Trần.

4. Xã Kiều Yêu Hạ 嬌 夭 下: 21 tr., do Nguyễn Bính soạn, sao lại năm Vĩnh Hựu 2 (1736); gồm sự tích Nguyễn Sùng 阮 崇 hiệu Cao Sơn 高 山 (Cao Sơn Đại Vương Thượng Đẳng Thần 高 山 大 王上 等 神 ); Quý Minh Đại Vương 貴 明 大 王; Hoàng Triều 皇 朝 (Hoàng Triều Tôn Thần 皇 朝 尊 神); Hoàng Bá 皇 伯 (Hoàng Bá Tôn Thần 皇 伯 尊 神) triều Trưng Vương.


5721/ 683. KIẾN AN TỈNH AN DƯƠNG HUYỆN VĂN CÚ TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 建 安 省 安 陽 縣 文 句 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 91 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán.AE.A12/5Thần tích 5 xã, thuộc tổng Văn Cú, huyện An Dương tỉnh Kiến An.

1. Xã Kiến Phong 建 封: 30 tr., Nguyễn Bính soạn, sao lại vào năm 1736; gồm sự tích Phạm Thành 范 誠 tự Tử Nghi 子 儀(Nam Hải Đại Vương 南 海 大 王); Uy Linh Sơn Thần 威 靈 山 神 (Uy Linh Thông Cảm Đại Vương 威 靈 通 感 大 王); và Bến Diệc Thủy Thần 。 。 水 神 (Bến Diệc Hiển Ứng Đại Thần 。 。 顯 應 大 神 ) triều Trần.-------------------* Có bài văn bia nói về việc hưng công xây dựng đình, do Phạm Quy Khanh 范規 卿 soạn năm Tự Đức 14 (1861); và bài văn nói về việc các tiên công dòng họ Nguyễn chiêu tập dân thôn, chỉnh đốn dân phong do Nguyễn Văn Đảo 阮 文 禱 soạn năm Tự Đức 6 (1853).

4. Xã Văn Tràng (Trường) 文 場: 19 tr., sao lại vào năm Vĩnh Hựu 2 (1736); gồm sự tích Nuôi Lanh Ngự Tấu Hộ Quốc Diễn Khánh... Khai Bình Đại Vương 。 。 禦 奏 護 國 衍 慶... 開 平 大 王; Vua Bà Quý Minh Thụy Trinh Khiết Phu Nhân 。 婆 貴 明 瑞 貞 潔 夫 人 và Quỳnh Phương Công Chúa 瓊 芳 公 主 triều Lý.






5723/ 685. KIẾN AN TỈNH AN LÃO HUYỆN PHƯƠNG CHỬ TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 建安省安老縣芳渚總各社神蹟- 1 bản viết, 21 tr., 31,5 x 21.5, chữ Hán.AE. a12/7Thần tích 2 xã thuộc tổng Phương Chử, huyện An Lão, tỉnh Kiến An.

1. Xã Đồng Xuân 同春: 9 tr., về sự tích Phạm Thành (Nam Hải... linh ứng đại vương 南海...靈應大王).

2. Xã Ngọc Chử : 10tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Bùi Thành 裴誠, tự Mộng Hoa 夢花(Bùi tướng công thần tiên 裴相公神僊)


5736/ 698. KIẾN AN TỈNH TIÊN LÃNG HUYỆN DIÊN LÃO TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 建 安 省 先 郎 縣 延 老 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 45 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán.AE.A12/15Thần tích 4 xã, thuộc tổng Diên Lão, huyện Tiên Lãng, tỉnh Kiến An.

1. Xã Tự Tiên 自 先: 9 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Chiêu Nương 昭 娘 (Chiêu Hiến Trang Thục Công Chúa 昭 憲 莊 淑 公 主 ); Chân Công 真 公 (Lý Vực Chân Quan Đại Vương 里 域 真 官 大 王) triều Lý.

2. Xã Khánh Lai 慶 來: 11 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Hùng Công 雄 公 (Sung Sơn Hùng Uy Khai Trấn... Đại Vương 充 山 雄 威 開 鎮... 大 王) triều Lý.

3. Xã Tiên Lãng 先 朗: 6 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Phạm Quý Nha Phụ Quốc Thượng Tể Đại Tướng Quân Đại Vương 范 貴 衙 輔 國 上 宰 大 將 軍 大 王, Noa Kỳ 捼 奇 (Noa Kỳ Bản Lộ Đông Hải Đại Tướng Quân Đại Vương 捼 奇 本 路東 海 大 將 軍 大 王); Huy Nương 徽 娘 (Huy Thân Trinh Thục Công Chúa 徽 親 貞 淑 公 主 ); Ả Nương Viên 婀 娘 猿(Thượng Công Chúa Ả Nương Viên Công Chúa 上 公 主婀 娘 猿 公 主 ) triều Lý.

4. Xã Đông Ninh 東 寧: 17 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Thành Công 誠 公 (Noa Kỳ Bản Lộ Thượng Tướng Quân Đại Vương 捼 奇 本 路 上 將 軍 大 王); Đoan Nương 端 娘 (Đoan Nương Công Chúa 端 娘 大 王) triều Trần; và sự tích Huy Thân Trinh Thục Công Chúa 徽親 貞 淑 公 主 triều Lý.


5762/ 724. NAM ĐỊNH TỈNH TRỰC NINH HUYỆN DUYÊN HƯNG TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 南 定 省 直 寧 縣 延 興 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 62 tr., 32 x 22, chữ Hán.AE.A15/19Thần tích 1 trang, 3 xã thuộc tổng Duyên Hưng, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.

1. Xã Duyên Bình 沿 平: 14 tr., gồm sự tích Phạm Thành 范 誠 (Tứ Dương Hầu 泗 陽 侯 ) triều Lê; 4 vị Thánh Nương là Hoàng Hậu, Công Chúa nước Tống.

2. Xã Quỹ Đê 揆 堤: 20 tr., do Nguyễn Hiền viết năm 1736, gồm sự tích 2 vị thần đời Triệu: Nguyễn Phúc 阮 福 (Hiếu Túc Anh Nghị Đại Vương 孝 肅 英 毅 大 王); Nguyễn Lộc 阮 祿 (Vĩ Tích Hồng Hy Đại Vương 偉 績 洪 熙 大 王).

3. Xã Liễu Đê 柳 堤: 16 tr., do Nguyễn Hiền viết năm 1736, về sự tích Triệu Quang Phục 趙 光 復 (Triệu Việt Vương Hoàng Đế趙 越 王 皇 帝).

4. Trang Duyên Hưng 延 興: 10 tr., Nguyễn Hiền sao năm 1736, về sự tích Thục Phán 蜀 泮 (Nam Hải Đại Vương 南 海 大 王).


5791/ 753. NGHỆ AN TỈNH NGHI LỘC HUYỆN ĐẶNG XÁ TỔNG CÁC XÃ THÔN THẦN TÍCH 乂 安 省 興 元 府 鄧 舍 總 各 社村 神 蹟- 1 bản viết, 13 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán.AE.B1/2Thần tích 2 thôn, 1 xã thuộc tổng Đặng Xá, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

1. Thôn Chính Vĩ 政 偉 , xã Lộc Hải 祿 海: 3 tr., về sự tích Vương Bột 王 勃 , tự Tử An 子 安.2. Xã Lộc Hải 祿 海: 3 tr., về sự tích Phạm Công (Nguyên Soái Thái Bảo Thành Quốc Công Tứ Dương Hầu 元 帥 太 保 成 國 公 泗 陽 侯 ).

3. Thôn Cổ Bái 古 沛: 5 tr., về sự tích Phạm Công Huy 范 公 徽.* Có bài thơ Nôm và bài tựa.





5814/ 776. NINH BÌNH TỈNH YÊN KHÁNH HUYỆN BỒNG HẢI TỔNG CÁC XÃ THÔN THẦN TÍCH 寧 平 省 安 慶 縣 蓬 海 總 各 社村 神 蹟- 1 bản viết, 48 tr., 32 x 22, chữ Hán.AE.A4/23Thần tích 1 thôn, 1 xã thuộc tổng Bồng Hải, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

1. Xã Kiến Ốc 建 屋: 10 tr., về sự tích Phạm Thành 范 誠 (Tứ Dương Hầu Nam Dương Đông Đạo Nguyên Soái 泗 陽 侯 南 陽 東 道 元 帥 ) triều Mạc.

2. Thôn Tập Phúc 集 福 , xã Quyết Trung 厥 中: 36 tr., về sự tích Hưng Đạo Đại Vương 興 道 大 王 triều Trần.



5813/ 775. NINH BÌNH TỈNH YÊN KHÁNH HUYỆN BỒNG HẢI TỔNG CÁC THÔN ÁNG THẦN TÍCH 寧 平 省 安 慶 縣 蓬 海 總 各 村 盎 神 蹟- 1 bản viết, 38 tr., 32 x 22, chữ Hán.AE.A4/22Thần tích 2 áng, 1 phường, 1 thôn thuộc tổng Bồng Hải, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

1. Áng Lương Phúc 良 福 , thôn Nhất, giáp Nguyên 原: 24 tr., về sự tích Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương大 乾 國 家 南 海 四 位 聖 娘 (Hoàng Hậu và Công Chúa nhà Tống).

2. Phường Quan Ải 關 隘: 6 tr., về sự tích Phan Kínhtriều Lê.

3. Áng Hải Đức 海 德: 14 tr., về sự tích Phạm Thành 範 誠 (Phạm Tử Nghi 范 子 儀 , Tứ Dương Hầu 泗 陽 侯 ) triều Mạc.

4. Thôn Phạm, giáp Nhất 一: 6 tr., soạn năm 1915, về sự tích Phạm Xuân Vi 范 春 為.


5823/ 785. NINH BÌNH TỈNH YÊN KHÁNH PHỦ KIM SƠN HUYỆN TỰ TÂN TỔNG CÁC ẤP TRẠI THẦN TÍCH 寧 平 省 安 慶 金 山 縣 自 新 總 各 邑 寨 神 蹟- 1 bản viết, 46 tr., 32 x 22, chữ Hán.AE.A4/20Thần tích 3 ấp, 2 trại thuộc tổng Tự Tân, huyện Kim Sơn, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

1. Ấp Tự Tân 自 新: 18 tr., gồm sự tích 3 vị thần triều Trưng Vương: Bạch Ngọc Hùng Lược Đại Vương 白 玉 雄 略 大 王; Lương Tú Phán Quan 良 秀 判 官; Nha Tam Nương Công Chúa 鴉 三 娘 公 主.2. Trại Ninh Mật 寧 謐: 8 tr., về sự tích Hoàng Hậu nước Tống cùng 2 Công Chúa chạy nạn sang nước ta.

3. Ấp Lưu Phương 留 芳: 8 tr., về sự tích Triệu Quang Phục 趙 光 復.4. Trại Mật Như 密 如: 12 tr., về sự tích Phạm Thành 范 誠 (Phạm Tử Nghi 范 子 儀 ) triều Mạc.

5. Ấp Phu Vinh 敷 榮: 4 tr., về sự tích Đại La Đại Vương 大 羅 大 王 triều Trần.


5822/ 784. NINH BÌNH TỈNH YÊN KHÁNH PHỦ KIM SƠN HUYỆN HƯƠNG ĐẠO TỔNG CÁC LÝ TRẠI ẤP THẦN TÍCH寧 平 省 安 慶 金 山 縣 鄉 道 總 各 里 寨 邑 神 蹟- 1 bản viết, 58 tr., 32 x 22, chữ Hán.AE.A4/19Thần tích 3 ấp, 2 trại, 1 xóm thuộc tổng Hương Đạo, huyện Kim Sơn, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

1. Xóm Hương Đạo 鄉 道: 4 tr., thờ mẹ con Công Chúa Nam Tống.

2. Trại Lưu Quang 流 光: 6 tr., về sự tích Đại La Đại Vương 大 羅 大 王 triều Trần.

3. Ấp Thủ Trung 守 中: 4 tr., về sự tích Chiêu Hải Đại Vương 昭 海 大 王.

4. Ấp Ứng Luật 應 律: 10 tr., về sự tích Triệu Việt Vương Hoàng Đế 趙 越 王 皇 帝.

5. Trại Trung Quy 中 規: 12 tr., về sự tích Phạm Thành 范 誠 (Phạm Tử Nghi 范 子 儀 ).

6. Ấp Lạc Thiện 樂 善: 24 tr., do Nguyễn Tung soạn năm 1510, về sự tích Cao Hiển 高 顯 (Cao Sơn Quốc Chủ Đại Vương 高 山國 主 大 王).

* Có bài ký khắc trên tấm bia ở miếu phường Kim Hoa 金 花 , xã Đồng Lâm, nói về thần.


5893/ 855. QUẢNG YÊN TỈNH YÊN HƯNG HUYỆN HÀ NAM TỔNG HẢI YẾN XÃ THẦN TÍCH 廣 安 省 安 興 縣 河 南 總 海 晏 社 神 蹟- 1 bản viết, 12 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán.AE.A19/2Thần tích xã Hải Yến thuộc tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên, sao lại năm Khải Định 5 (1920), về sự tích Phạm Thành 范 誠 tự Tử Nghi 子 儀.


Phạm Thị Minh

5215/ 177. HƯNG YÊN TỈNH VĂN LÂM HUYỆN CÁC XÃ THẦN SẮC 興 安 省 文 林 縣 各 社 神 敕- 1 bản viết, 244 tr., 32 x 22.5, chữ Hán.AD. A3/11Thần sắc 3 thôn và 2 xã thuộc tổng Như Quỳnh 如 瓊 , huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.

1. Thôn Ngọc Quỳnh 玉 瓊, xã Như Quỳnh 如 瓊: 8 tr., phong cấp vào các năm Cảnh Hưng (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo).* Phong cho Hoàng Cảm... Hoàng Thái Hậu 皇 感...皇 太 后.2. Thôn Lê Xá 黎 舍, xã Như Quỳnh: 20 tr., phong cấp vào các năm Bảo Thái (1 đạo), Cảnh Hưng (6 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo), Bảo Hưng (1 đạo).* Phong cho Thành Hoàng là Hậu Đức... Đại Vương 厚 德...大 王; Phạm Thị Minh 范 氏 明 (là tằng tổ tỉ của Tôn Đức Thái Phi 尊 德 太 妃); Trương Hộ 張 護 (con trai trưởng của Phấn Quận Công Trương Nhiêu 奮 郡 公 張 饒); Trương Bàng 張 滂(cháu đích tôn của Phấn Quận Công Trương Nhiêu); Phấn Quận Công 奮 郡 公.3. Thôn Đường Cố 唐 固, xã Như Quỳnh: 48 tr., phong cấp vào các năm Vĩnh Thọ (1 đạo), Cảnh Trị (1 đạo), Dương Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hưng (3 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo), Bảo Hưng (1 đạo).* Phong cho Thành Hoàng là Tá Trị... Đại Vương 佐 治...大 王và Nương Bà Công Chúa 娘 婆 公 主.4. Xã Ngọ Cầu 午 梂: 82 tr., phong cấp vào các năm Đức Long (1 đạo), Dương Hòa (3 đạo), Phúc Thái (3 đạo), Khánh Đức (1 đạo), Thịnh Đức (3 đạo), Cảnh Trị (1 đạo), Dương Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hưng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo), Bảo Hưng (1 đạo).* Phong cho Trà (?) Lôi (?) Hồng Ân Cư Sĩ 茶 雷 洪 恩 居 仕.5. Xã An Xuyên 安 川: 82 tr., phong cấp vào các năm Đức Long (1 đạo), Dương Hòa (3 đạo), Phúc Thái (3 đạo), Khánh Đức (1 đạo), Thịnh Đức (3 đạo), Cảnh Trị (1 đạo), Dương Đức (1 đạo), Chính Hòa (1 đạo), Vĩnh Thịnh (1 đạo), Vĩnh Khánh (1 đạo), Cảnh Hưng (3 đạo), Chiêu Thống (1 đạo), Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo), Bảo Hưng (1 đạo).* Phong cho Trà (?) Lôi (?) Hồng Ân Cư Sĩ Đại Vương 茶 雷 洪 恩 居 仕...大 王.


Phạm Thị Tiên (triều Đinh), Phạm Ngộ (triều Trần)

5880/ 842. PHÚC YÊN TỈNH ĐÔNG ANH HUYỆN XUÂN NỘN TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 福 安 省 東 英 縣 春 嫩 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 221 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán.AE.A11/4Thần tích 4 thôn, 5 xã thuộc tổng Xuân Nộn, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên.

1. Xã Nhạn Tái 雁 塞: 20 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Lý Xá Lỵ 李 舍 利 húy Bí 李 賁 (Xá Lại 舍 賴 , Lý Phật Tử 李 佛 子 , Thánh Phụ Xá Lại Sùng Nghiệp An Dân Đại Vương 聖 父 舍 賴 崇 業 安 民 大 王); Lý Nhã Lang 李 雅 郎(Quốc Vương Thiên Tử Nhã Lang Nam Đế Vương 國 王 天 子 雅 郎 南 帝 王 ), Ả Lã 婀 。 (Thánh Mẫu Ả Lã Phi Nhân Hoàng Hậu 聖 母 婀 皇 后); Hỗn Độn 渾 沌 (Hỗn Độn Uy Linh Cảm Ứng Đại Vương 渾 沌 威 靈 感 應 大 王); Đỗ Nhuận 杜 潤 (Tá Phụ Minh Quân Đại Vương 佐 輔 明 君 大 王) triều Lý.

2. Thôn Mạnh Tân 孟 津 , xã Thư Lâm 書 林: 27 tr., gồm sự tích Ả Thuần Nương Công Chúa 婀 純 娘 公 主 triều Lý, do Nguyễn Bính soạn năm 1572; Phạm Thị Tiên 范 氏 仙 (Tiên Phi Nhân 僊 妃 人) , Lý Quốc Hoàng Thái Hậu 李 國 皇 太 后 ) triều Lý; và Đại Đương Giang Minh Thiên Tá Phụ Đại Vương 大 當 江 明 天 佐 輔 大 王 triều Đinh Tiên Hoàng.

3. Thôn Biểu Khê 表 溪 , xã Thư Lâm 書 林: 13 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Đương Giang 當 江 (Tiểu Đương Giang Phụ Tá Đại Vương 小 當 江 輔 佐 大 王) triều Đinh Tiên Hoàng.

4. Thôn Cổ Miếu 古 廟 , xã Thư Lâm 書 林: 30 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Ngọc Thanh Công Chúa 玉 清 公 主 triều Trưng Nữ Vương; Ả Nguyệt Nga Công Chúa 婀 月 娥 公 主 triều Lý Thánh Tông; và Đoàn Thượng 段 尚(Đông Hải Đại Vương 東 海 大 王).

5. Thôn Hương Trầm 香 沉 , xã Thư Lâm 書 林: 18 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Quý Minh 貴 明 (Quý Minh Hiển Ứng Linh Thông Đại Vương 貴 明 顯 應 靈 通 大 王) triều Hùng Duệ Vương.

6. Xã Đào Thục 陶 熟: 12 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đương Giang 當 江 (Đương Giang Tá Phụ Minh Thiên... Đại Vương 當 江 佐 輔 大 王); Hoàng Hậu Mặc Tướng... Phi Nương Phu Nhân 皇 后 默 將... 妃 娘 夫 人 triều Đinh Tiên Hoàng; và Tam Giang 三 江 (Tam Giang Khước Địch Linh Ứng Đại Vương 三 江 卻 敵 靈 應 大 王) triều Triệu Việt Vương.

7. Xã Kim Tiên 金 僊: 14 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Hoàng Hậu Linh Thông Túy Tinh Phu Nhân 皇 后 靈 通 粹 精... 夫 人 triều Trưng Nữ Vương; Hùng Công 雄 公 (Đô Hộ Hùng Uy Đại Vương 都 護 雄 威 大 王); Uy Công 威 公 (Đô Hộ Uy Hùng Đại Vương 都 護 威 雄 大 王) thời Đường Thái Tông, Vũ Đế.

8. Xã Nguyên Khê 沅 溪: 30 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Tam Giang Linh Ứng Đại Vương 三 江 靈 應 大 王 (tức Trương Hống, Trương Hát); và Cao Hiển 高 顯 (Cao Sơn Hiển Ứng Đại Vương 高 山 顯 應 大 王) triều Hùng Duệ Vương.

* Có bài văn bia và tựa do Lê Tung soạn năm Hồng Thuận 2 (1510).

9. Xã Xuân Nộn 春 嫩: 77 tr., gồm sự tích Vũ Định 武 定 và Thiên Trí 天 置 triều Hùng Duệ Vương; Trương Hống 張 吼 (Đại Đương Giang Hộ Quốc Đại Vương 大 當 江 護 國 大 王); Trương Hát 張 喝 (Tiểu Đương Giang Hộ Quốc Đại Vương 小 當 江 護 國 大 王); Đông A Thế Phả Hành Trạng 東 阿 世 譜 行 狀 (Hành trạng Trần Quốc Tuấn, Nguyên từ quốc mẫu, Trần Quang Khải...); sự trạng của Hiển Thánh Đại Vương (Trần Quốc Tuấn đánh quân Nguyên); bài hịch của Hiển Thánh Đại Vương dụ các quân tướng; hành trạng một số bộ tướng của Trần Quốc Tuấn như: Đỗ Khắc Chung 杜 克 終 , Trần Bình Trọng 陳 平 仲 , Trần Khánh Dư 陳 慶 餘 , Phạm Ngộ 范 遇 , Yết Kiêu 歇 驍 , Nguyễn Khoái 阮 蒯 , Đỗ Hành 杜 衡 , Trần Thời Kiến 陳 時 見 , Trương Hán Siêu 張 漢 超 , v.v...


Phạm Thích

5618/ 580. HẢI DƯƠNG TỈNH CẨM GIÀNG HUYỆN KIM QUAN TỔNG CÁC XÃ THẦN TÍCH 海 陽 省錦 江 縣 金 關 總 各 社 神 蹟- 1 bản viết, 35 tr., 31 x 21, chữ Hán.AE.A6/2Thần tích 4 xã, thuộc tổng Kim Quan, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

1. Xã Tràng Kênh 長 涇: 12 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Định Công (Đương Cảnh Thành Hoàng Vũ Định Tối Linh Đại Vương 當 境 城 隍 武 最 靈 大 王) thời Lê Đại Hành.

2. Xã Kim Quan 金 關: 3 tr., sự tích Lại Tướng Công 賴 相 公 , (húy Kim Bảng 金 榜 , thụy Đoan Phương 端 方 , đỗ Hoàng giáp (năm 1518), làm quan đến Giám sát ngự sử, không chịu cộng tác với nhà Mạc, gieo mình xuống sông tử tiết, đến thời Lê Trung Hưng, được phong Phúc thần) và sự tích Đô Thống Quản Binh都 統 管 兵 (họ Hoàng, người tổng Thái Trạch, tỉnh Nghệ An, theo vua Lê đi đánh Chiêm Thành, sau khi mất được gia phong Tối Linh Đại Vương 最 靈 大 王).

3. Xã Lương Xá 梁 舍: 2 tr., sao năm Minh Mệnh (1830), về sự tích Dữ Đạo Đại Vương 與 道 大 王 (Phạm Thích 范 適 ).

4. Xã Trữ La 苧 羅: 18 tr., do Nguyễn Hiền sao năm 1736, về sự tích Đoàn Thượng 段 尚 (Đông Hải Đại Vương 東 海 大 王) thời Lý.


5883/ 845. PHÚC YÊN TỈNH YÊN LÃNG PHỦ YÊN LÃNG HUYỆN CÁC TỔNG CHƯ XÃ THẦN TÍCH 福 安 省 安 朗 府 安 朗 縣 各 總 諸 社 神 蹟- 1 bản viết, 196 tr., 31.5 x 21.5, chữ Hán.AE.A11/15Thần tích 1 xã thuộc tổng Đa Lộc 多 祿 , 4 xã thuộc tổng Hạ Lôi 夏 雷 , 3 xã thuộc tổng Xa Mạc 車 幕 , 3 xã thuộc tổng Thạch Đà 石 柁 , 1 xã thuộc tổng Phú Mỹ 富 美.1. Xã Trang Việt 莊 越 tổng Đa Lộc: 9 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Ả Lự Minh Vương 明 王 , Bạch Trạch Quận Công 白 澤 郡 公 triều Hùng Vương.

2. Xã Thường Lệ 常 棣 , tổng Hạ Lôi: 2 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Vua Cả Đông Hán Đại Vương 奇 東 漢 大 王, Vua Hai Đông Hán Đại Vương 。 。 東 漢 大 王, Vua Ba Đông Hán Đại Vương 。 。 東 漢 大 王, Công Chúa Vua Bà Đại Vương 公 主 婆 大 王.

3. Xã Nội Động 內 洞 , tổng Hạ Lôi: 20 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Cao Sơn Ban Thiên Đại Vương 高 山 班 天 大 王, Quý Minh Hiển Linh Đại Vương 貴 明 顯 靈 大 王.

4. Xã Cư An 居 安 , tổng Hạ Lôi: 2 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, ghi sự tích Phạm Viện 范 援 (Dực Vận Tế Thế Uy Linh Đại Vương 翊 運 濟 世 威 靈 大 王).

5. Xã Văn Lôi 聞 雷 , tổng Hạ Lôi: 11 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Lũ Lũy 縷 縲 (Lũ Lũy Bán Thiên Hiển Ứng Đại Vương 縷 縲 半 天 顯 應 大 王).

6. Xã An Bài 安 排 , tổng Xa Mạc: 9 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1573 (?); về sự tích Sĩ Nhiếp 士 燮 (Nam Bang Học Tổ Sĩ Vương Tiên 南 邦 學 祖 士 王 仙 ).

7. Xã Bồng Mạc 蓬 幕 , tổng Xa Mạc: 7 tr., Lê Tung soạn năm Hồng Đức 1 (1470), về sự tích Lý Phật Mã 李 佛 瑪 (Xá Lỵ Lý Triều Hoàng Đế 舍 利 李 朝 皇 帝); Nhã Lang Hiển Ứng Đại Vương 雅 郎 顯 應 大 王; Ả Lã Nàng Đê Công Chúa 婀 。 娘 。 公 主; Ả Nương Phu Nhân 婀 娘 人; Ả Nang Phu Nhân 婀 囊 夫 人.

8. Xã Đông Cao 東 皋 , tổng Thạch Đà: 36 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Thổ Lệnh 土 令 (Bạch Hạc Tam Giang Thổ Lệnh Thượng Đẳng Thần 白 鶴 三 江 土 令 上 等 神 ) triều Hùng Vương; Linh Công 靈 公 (Tiền Tướng Quân Linh Hồ Đại Vương 前 將 君 靈 壺 大 王); Minh Công 明 公 (Tả Tướng Quân Chiêu Minh Đại Vương 左 將 軍 昭 明 大 王); Cung Công 宮 公 (Hữu Tướng Quân Cung Mục Đại Vương 右 將 軍 恭 穆 大 王) triều Hùng Duệ Vương; Nhị Vị Thượng Đẳng Phúc Thần 二 位 上 等 福 神 triều Trưng Nữ Vương.

9. Xã Hoàng Xá 黃 舍 , tổng Thạch Đà: 48 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Ả Lự Công Chúa 婀 。 公 主 , Ả Đê Công Chúa 婀 。 公 主 triều Lý Nam Đế; Mã Viện 馬 援 (Đông Hán Quốc Vương Thiên Tử 東 漢 國 王 天 子 ) triều Đông Hán; Ất Lan Đại Vương 。 。 大 王, Phương Dung Công Chúa 芳 蓉 公 主 triều Lê Thánh Tông.

10. Xã Thạch Đà 石 柁 , tổng Thạch Đà: 30 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, gồm sự tích Đài Công 薹 公 , Mỹ Nương Công Chúa 。 娘 公 主 , Cầu Nương Công Chúa 梂 娘 公 主 , và sự tích Lã Nương Công Chúa 娘 公 主 , Ả Nương Công Chúa 婀 娘 公 主 , Mỵ Nương Công Chúa 媚 娘 公 主 triều Hùng Duệ Vương.

11. Xã Thái Lai 泰 來 , tổng Phú Mỹ 富 美: 20 tr., do Nguyễn Bính soạn năm 1572, về sự tích Bảo Công(Uy Linh Hiển Ứng Thiên Bảo Hộ Quốc Đại Vương 威 靈 顯 應 天 寶 護 國 大 王).


Nguồn tin: Viện Hán Nôm 

http://timcoinguon.blogspot.com/2013/08/cac-vi-than-ho-pham-trong-tai-lieu-vien.html 

939 Phạm Tuyên, Mai Khu, Mai Động, Bình Lục, Hà Nam, gốc Hoằng Hóa đến ở đây đã ba đời. 

Ngọc phả họ Phạm



Đình làng Mai Động thờ hai vị thần giúp vua Đinh Tiên Hòang dẹp lọan mười hai sứ quân, thốngnhất đất nước, mở nền chínhthống dựng nghiệp thái bình


Theo thần phả :


Đạo sơn nam phủ Lý Nhân huyện Bình Lục, trang Mai Động, Mai Khu có một người họ Phạm tên Tuyên, người ở Ái Châu, huyện Hoằng Hóa đến ở đây đã ba đời.


Ông Tuyên làm bạn với bà Trần Thị Ngọan, người ở khu Mai Động. Hai ông bà làm bạn với nhau, cửa nhà êm ấm, chăm chỉ làm ăn, tính nết hiền lành xóm làng đều khen ngợi. Hiềm một nỗi tuổi cao, con hiếm. Rồi một đêm bà nằm mộng thấy hai ngôi sao trên trời rơi xuống, bà nuốt trôi vào bụng. Bà sợ hãi tỉnh dậy đem chuyện nói với ông. Ông cả mừng gia tâm làm việc thiện.


Đến giờ Dần ngày mùng mười tháng tám năm 939 (Kỷ Hợi), bà qua thời mãn nguyệt khai hoa sinh được hai trai vẻ người khôi ngô đặt tên là Hán và Phổ


Năm 1 tuổi, ông cho đi học, hai chú bé rất thông minh. Mới học được ba năm, cả hai đều thông kinh sử, am hiểu thao lược. Nhất là ông Phạm Hán lại giỏi về thơ phú. Thầy thường khen rằng “gia đình này phúc đức như thế nào mà được hai trai văn vũ thao lược đáng mặt anh hùng phò vua giúp nước”.


Một ngày kia, trời đông giá lạnh mà mặt trời hé nắngtrông thấy cảnh đẹp của mùa đông, cậu Hán cảm xúc bèn ngâm một bài thơ tứ tuyệt rằng


Hồng nhật sơ khai thảo hiệu xuân

Hướng ngô huynh đệ kháng ưu bần

Tu mi nhĩ túc thiên hạ phụ

Có bãi hảo thời trạch thánh quân


Tạm dịch


Mặt trời hé đỏ cảnh đầu xuân

Hai chúng ta đây luống phụ bần

Tai mắt mày râu trời chẳng phụ

Chờ thời hãy đến chọn minh quân


Năm hai ông hai mươi bốn tuổi, ông bà Tuyên lần lượt chầu trời. Hai ông tuy buồn rầu nhưng chí lớn vươn cao. Ông thường nói “Nước Việt ta đâu phải không người, sao để bọn sứ quân nhiễu nhương quá đỗi”. Hai ông bèn kết giao hào kiệt bốn phương, chiêu mộ trai tráng thiết lập đồn lũy trên đất Mai Khu. Hiện nay phảng phất còn một số di tích, một số gò đống hình chữ nhật, có một số dấu vết sông ngòi như hào bao quanh vây bọc lấy thôn lại có cả ao đình cũ.


Giặc kéo đến tàn sát cướp bóc dân lành. Hai ông đánh nhau với hai sứ quân là Phạm Phòng Ất và Ngô Nam qua vài mươi trận. Hai ông giữ phần thắng, thanh thế vang dậy


Bấy giờ ông Bộ Lĩnh họ Đinh cùng với chủ tướng là Đinh Điền, Nguyễn Bặc dấy quân từ động Hoa Lư. Nghe tiếng hai ông liền cho sứ giả về tận Mai Động để mời. Hai ông còn do dự thì đêm ấy có thần báo mộng “họ Phạm làm tướng, họ Đinh làm vua. Mệnh trời đã định, nếu không nghe tức trái mệnh trời”.


Hôm sau, hai ông bèn tiếp sứ giả, chọn ngày chỉnh đốn quân lương khí giới đầy đủ cùng với sứ giả vào Hoa Lư yết kiến Bộ Lĩnh.

Đến nơi hai ông thấy Đinh Bộ Lĩnh là người mưu cao lược cả, có khí tướng đế vương và Đinh Điền, Nguyễn Bặc là bậc anh hùng đáng tài lương đống rất vui mừng


Còn về họ Đinh thấy hai ông tướng mạo khôi ngô, đường đường khí thế. Hỏi đến văn thao vũ lược Bộ Lĩnh khen “Phạm Hán ví như Trương Lương đời Hán” Hỏi đến bài binh bố trận Bộ Lĩnh khen “Phạm Phổ ví như Dương Nghiệp đời Tống” thật là danh bất hư truyền. Hai người đã thuộc về ta, lo gì mười hai sứ quân không bình định được. Bèn phong cho Phạm Hán giữ chức Tham Mưu, Phạm Phổ giữ chức Đại Tướng, liền giết trâu bò tế trời đất, khao ba quân.


Tiệc xong, hai ông họ Phạm xin tự mình đem quân đi dẹp Ngô Nam và Phạm Phòng Át ở Đằng Châu, Dạ Trạch. Bộ Lĩnh bằng lòng. Hai ông chỉnh đốn binh lương về qua Mai Động tuyển mộ thêm trai tráng rồi lập tức thủy bộ cùng tiến. Thế lực như chẻ tre, chém hàng nghìn thủ cấp. Ngô Nam và Phòng át đã tan tành như lá mùa thu trước gió.


Còn mười sứ quân kia cũng bị Bộ Lĩnh Đinh Điền, Nguyễn Bặc chia quân đánh phá khiến cho đại bại, xe một cỗ không còn, ngựa một con chẳng sót.


Bộ Lĩnh truyền lệnh cho chủ tướng dẫn quân về nơi qui định, giương cờ hát khúc khải hoàn.


Về Hoa Lư, vua Đinh lên ngôi hoàng đế, phong thưởng ba quân. Phạm Hán được phong An Định Công, Phạm Phổ được phong Thống Lĩnh Công, đều được ân lộc nghìn hộ.


Hai ông bái tạ nhà vua, xin về Mai Khu lập hành cung để ở lại dâng biểu xin miễn tạp dịch cho dân.


Hai ông cùng vui sống với dân làng. Phẩm vua Đinh có thưởng, bổng lộc đều chia cho nhân dân và khuyến khích dân làng cày cấy chăm tằm, những kỳ Đại tiết hai ông về chầu vua.


Bấy giờ thiên hạ thái bình, nhân dân no ấm. Vua thấy hai ông có nhiều công lớn bèn thưởng cho Thiết Việt, (tức lọai vũ khí của các vị tướng khai quốc công thần. Trên đầu vũ khí có ấn tín nhà vua được phép tiền trảm hậu tấu. Khi chết , dân hải lập miếu cúng thờ) cùng cả nước chung hưởng phúc lâu dài.


Vua Định trị vì được mười hai năm thì băng hà. Con là Đinh Toàn lên ngôi còn nhỏ quân Tống sang xâm lược, Lê Hoàn lên ngôi để đánh Tống, hai ông không phục.


Vua Lê dụ hai ông về chầu, hứa phong quan tước. Hai ông không theo và nói “Ta cần phải lấy đầu Lê Hoàn chứ thiết gì phong quan tước”.

Rồi sau hai ông tuổi thọ đã cao mất tại chính tẩm. Nhân dân làm lễ an táng tại đình làng và viết bài vị để thờ. Lịch Đinh triều có phong tặng sắc phong như sau :


1-Sắc ĐINH TRIỀU THAM MƯU Phạm phủ quân chi thần, đoan túc rực báo trung hưng chi thần


2-Sắc ĐINH TRIỀU ĐẠI TƯỚNG Phạm phủ quân chí thần, đoan túc rực báo trung hưng chi thần


3-Sắc THIỆU NGỌAN TRƯƠNG phu nhân chi thần rực bảo trung hưng linh phu chi thần


4-Sắc DUNG HOA QUẬN CHÚA PHƯƠNG ANH bình đại thần, rực bảo trung hưng linh phù chi thần


Người lược dịch TRẦN NHÂN CƠ

Bảo tàng Hà Nam Ninh

Ba vị phó tướng của tướng Trần Khánh Dư trong trận đánh thuyền lương quân Nguyên 1288

Về ba vị tướng họ Phạm thờ tại Quan Lạn 

Chủ nhật, 15/12/2013 | 09:27:08 [GMT +7] 

Du khách gần xa có dịp ra Quan Lạn (Vân Đồn) chẳng mấy ai không ghé thăm cụm di tích đình, miếu, nghè, chùa Quan Lạn nằm ở trung tâm xã đảo. Hàng năm, vào các ngày 16 đến 18 âm lịch, người dân xã đảo Quan Lạn lại tổ chức lễ hội truyền thống Vân Đồn tưởng nhớ chiến công danh tướng Trần Khánh Dư đánh tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ tại Vân Đồn năm 1288.


Hai giáp Đông Nam Văn và Đoài Bắc Võ làm lễ tế thần trước miếu Đức Ông - một nghi lễ không thể thiếu trong Lễ hội truyền thống Vân Đồn.

Nằm trong cụm di tích kể trên, hiện nay, ở Quan Lạn có miếu Đức Ông thờ Phạm Công Chính nằm ở xóm Đoài, miếu Sao Ỏn thờ Phạm Quý Công ở xóm Tân Phong và miếu Đông Hồ thờ Phạm Thuần Dụng ở xóm Thái Hoà. Theo truyền miệng của người dân Quan Lạn, ba ông là anh em ruột. Khi quân Nguyên do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy kéo sang nước ta lần thứ ba (1287), ba ông đã chỉ huy dân binh địa phương cùng quân nhà Trần do Trần Khánh Dư chỉ huy đánh địch tại cửa Gót. Do tương quan lực lượng chênh lệch, cả ba ông đã hy sinh. Xác của ba ông trôi dạt vào bờ ở ba nơi: Sao Ỏn, Đông Hồ và Bến Đình. Dân làng thương xót đã lập miếu thờ và tôn làm thần. Hàng năm, vào dịp lễ hội Vân Đồn, miếu Đức Ông là một trong các trung tâm của lễ hội với các hoạt động tế thần, cáo yết xin lệnh thần cho đua thuyền. Đây là dịp để người dân Quan Lạn tưởng nhớ công ơn của Trần Khánh Dư và ba anh em họ Phạm đã vì nước quên thân.

Trong bài Hạ Long dưới cái nhìn địa - văn hoá đăng trên tập san Di sản văn hoá của Cục Di sản văn hoá (Bộ VH-TT) số 8-2004, cố GS Trần Quốc Vượng có kể lại vào mùa hè năm 1967, trong chuyến khảo sát tại Quan Lạn, ông đã đọc được bài vị tướng họ Phạm thờ trong đình. Ba anh em vốn làm nghề đánh cá, thường dân ở đảo giúp Trần Khánh Dư đánh trận Vân Đồn. Truyền thuyết dân gian tại đảo kể rằng một người là “Ông Nhòm” có tài nhìn xa, thấy thuyền địch vào; ông thứ hai là “Ông Hô” có tài “ăn sóng nói gió” bèn hô hoán cho dân đảo biết, còn ông thứ ba là “Ông Đục” có tài lặn giỏi đã bơi ra đục chìm thuyền giặc. Cũng theo GS Trần Quốc Vượng, sau chuyến đi của ông, nhà văn Nguyễn Tuân có chuyến đi Quan Lạn trở về đã tìm ông hỏi thêm thông tin này. Ít lâu sau, báo Văn nghệ đăng bài ký của Nguyễn Tuân có nhắc đến tích này.

Trao đổi với tác giả, ông Phạm Quốc Duyệt, nguyên cán bộ văn hoá xã Quan Lạn cho biết, hiện nay họ Phạm vẫn đang là dòng họ lớn nhất tại Quan Lạn, gồm các chi cành Phạm Chính, Phạm Đình, Phạm Văn. Tuy nhiên, con cháu họ Phạm hiện nay có liên quan gì đến ba danh tướng họ Phạm không thì chưa tìm thấy gia phả.

Ngày 10-4-2011, tác giả Ngọc Khanh có bài “Họ Phạm làng Khê Chanh (Quảng Yên) và bốn vị tướng quân thời nhà Trần” đăng trên báo Quảng Ninh. Tác giả cho biết, theo ông Phạm Hữu Ngọc, Phó Chủ tịch HĐGT họ Phạm làng Khê Chanh thì đã từ nhiều đời họ Phạm Khê Chanh có bài vị thờ ba anh em các cụ Phạm Thuần Dụng, Phạm Công Chính, Phạm Quý Công. Sự tích các cụ được truyền ngôn lại rằng ba cụ đã tử trận từ lâu, song rất nhiều đời nay con cháu chỉ thờ cúng chứ chưa tìm được nơi các cụ tử trận. Sau khi liên hệ, GS Hoàng Giáp (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) đã nhiệt tình về từ đường họ Phạm nghiên cứu các bài vị, sử tích, gia phả, đối chiếu với các miếu thờ và truyền thuyết ở Quan Lạn và một số nơi khác, GS Hoàng Giáp và cộng sự đã đi tới khẳng định: Ba anh em họ Phạm từng là phó tướng của Trần Khánh Dư, đã được thờ tại ba ngôi miếu ở Quan Lạn có nguồn gốc chính xác ở Quảng Yên, trùng khớp với tên được ghi trong bài vị ba cụ họ Phạm được thờ tại Từ đường họ Phạm làng Chanh. Vào ngày giỗ tổ 17 tháng giêng năm 2011, con cháu họ Phạm làng Khê Chanh từ khắp nơi trong nước nô nức đã về dự đại lễ rước sắc phong ba cụ đô thống họ Phạm từ Văn chỉ của làng về thờ phụng tại Từ đường.

Nhiều năm qua, câu chuyện về ba tướng quân họ Phạm hy sinh anh dũng trong trận Vân Đồn - Cửa Lục năm 1288 như một huyền thoại đã gắn liền với giá trị lịch sử, văn hoá của cụm di tích tại xã đảo Quan Lạn. Vì thế, mỗi năm đến lễ hội truyền thống Vân Đồn, người dân Quan Lạn và du khách gần xa lại có dịp ôn lại truyền thống yêu nước, tri ân công đức của cha ông ta thuở xưa.

Trần Minh

https://baoquangninh.vn/tim-trong-su-sach-ve-ba-vi-tuong-ho-pham-tho-tai-quan-lan-2216368.html

---------

Đầu năm Tân Mão 2011, được sự giúp đỡ của lãnh đạo địa phương, Phòng Văn hoá thông tin huyện và giáo sư Hoàng Giáp (Viện Nghiên cứu Hán Nôm), họ Phạm làng Khê Chanh (thị trấn Quảng Yên, huyện Yên Hưng) đã long trọng tổ chức đại lễ rước Sắc phong ba cụ Đô thống họ Phạm, là ba vị phó tướng của tướng Trần Khánh Dư trong trận đánh thuyền lương quân Nguyên, mở đầu cho chiến công chói lọi của quân và dân nhà Trần đập tan mộng xâm lăng Đại Việt của đế quốc Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng năm 1288.

Sau buổi lễ, chúng tôi đã trao đổi trực tiếp với giáo sư Hoàng Giáp, được ông kể lại quá trình ông và bà Hoàng Thuý Ngà,  cán bộ của Viện trực tiếp sưu tầm, cùng các nhà khoa học nghiên cứu, xác định danh tính, nguyên quán và tiến tới phục chế sắc phong ba vị Đô thống họ Phạm đã hy sinh anh dũng tại Vân Đồn năm 1288. Chúng tôi đã gặp hai ông Phạm Thế Dũng, Phạm Hữu Ngọc, là Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng gia tộc (HĐGT) họ Phạm làng Khê Chanh. Các ông cho biết: Theo gia phả và di ngôn của các cụ cao niên trong nhiều đời, dòng họ Phạm làng Khê Chanh có nguồn gốc từ Thanh Hoá, Nghệ An di cư ra Thái Bình.

Trải bao biến cố thăng trầm của lịch sử,  vào khoảng năm 1188, một lần nữa họ Phạm lại di cư từ Thái Bình ra định cư tại làng Khê Chanh, Yên Hưng, tính đến nay là đời thứ 17. Theo di ngôn và gia phả để lại thì ở đời thứ 5 (năm 1288), họ Phạm có cụ Phạm Đức Xim, huý Phạm Chấu, là con cụ Phạm Đình Khoán, quê ở Quỳnh Khê, sau này là thôn Quỳnh Lâu, thuộc làng Khê Chanh xưa, từng giữ chức Tổng vệ uý thời nhà Trần, đã cùng cụ Trần Hưng Đạo chỉ huy binh sĩ đánh thắng quân Nguyên Mông năm 1288.

Họ Phạm làng Khê Chanh là dòng họ có truyền thống yêu nước và học hành thành đạt. Tính đến nay dòng họ đã có nhiều tiến sĩ, cử nhân được ghi danh ở Văn Chỉ của làng. Nhiều người là cán bộ giảng dạy ở một số trường đại học trong và ngoài nước, là một trong những dòng họ có nhà thờ Tổ được xây dựng sớm nhất trong vùng (cách đây ngót 200 năm), với nhiều đồ thờ tự và các bài vị có từ lâu đời. Song do biến cố của lịch sử, cách đây hơn nửa thế kỷ, nhà thờ tổ của họ Phạm làng Chanh bị hoả hoạn, tất cả các đồ thờ tự, trong đó có cả các bài vị các cụ thuỷ tổ, các cụ tổ được thờ  tự hàng trăm năm qua, đã bị cháy rụi.

Do nhiều yếu tố, trên nửa thế kỷ qua, họ không còn nhà thờ Tổ, con cháu trong nhiều chi phái  tản mát khắp nơi trong và ngoài nước. Việc thờ phụng tiên tổ đành phải  thực hiện ở nhà riêng ông Trưởng tộc và một số chi phái ở quê hương. Là dòng họ có nề nếp bái vọng thờ tự, nên sau hoả hoạn, bài vị thờ các cụ Tổ đã được phục chế để lưu truyền cho con cháu mai sau. Năm 2007, được sự đóng góp, công đức của con cháu trong và ngoài nước, họ đã mua đất và xây dựng được nhà thờ Tổ.

Sau đó, thể theo ước nguyện của cháu con toàn dòng họ, HĐGT căn cứ vào gia phả và di ngôn của Tổ tiên, đã nhiều lần tổ chức đi tìm nơi cụ cao cao tổ Phạm Đức Xim (huý Phạm Chấu) đã hy sinh ngày 16-4 năm 1288, được Vua Trần phong tước Bát Hải Đại Vương... Căn cứ  vào những chứng cứ xác thực lịch sử để lại, có thể khẳng định, cụ Phạm Đức Xim nay được thờ tại di tích lịch sử Hang Son (Uông Bí) và chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều). Ngày 10 tháng giêng năm 2009, được sự giúp đỡ của Thượng toạ Thích Đạo Quang, dòng họ Phạm làng Chanh đã long trọng  rước di ảnh tượng của cụ Phạm Đức Xim từ Hang Son (Uông Bí) về Từ đường thờ phụng.

Theo tài liệu lịch sử khắc ở bia đá Hang Son, cụ Phạm Đức Xim là tướng Tổng vệ uý thời Trần đã cùng cụ Trần Hưng Đạo đánh thắng quân Nguyên Mông năm 1288. Cụ Trần Hưng đạo thống lãnh đại quân đánh giặc trên sông Bạch Đằng, cụ Phạm Đức Xim thống lãnh binh sĩ cảm tử, chặn quân Thoát Hoan trên bộ, không cho chúng tiếp ứng, cứu nguy cho Ô Mã Nhi đang bị Trần Hưng Đạo đánh cho tan tác trên sông Bạch Đằng. Do quân địch đông, thế còn mạnh, nên cụ Phạm Đức Xim và binh sĩ phải rút vào một hang lớn ở Uông Bí tử thủ. Dụ dỗ chiêu hàng không được, giặc đã dùng củi chất đầy cửa hang  hun khói đốt mấy ngày đêm. Cụ Phạm Đức Xim và binh sĩ đã anh dũng hy sinh trong hang vào ngày 16-4 năm 1288.

Dân làng đã lập miếu thờ cụ và các binh sĩ, đặt cho hang lớn này là Hang Son để ghi nhớ tấm lòng sắt son của cụ và binh sĩ đã xả thân vì đất nước. Cụ được vua Trần sắc phong Bát Hải Đại Vương khắc trên vách núi Hang Son, được lập đền thờ lấy tên Đức Thánh Phạm Chấu. Nay đền thờ cụ được tỉnh công nhận là di tích Lịch sử Văn hoá. Hàng năm lễ hội Hang Son được tổ chức long trọng trong ba ngày, từ 14 đến 16 tháng tư. Con cháu họ Phạm khắp nơi và nhân dân về dự lễ hội rất đông...

Ông Phạm Hữu Ngọc, Phó Chủ tịch HĐGT họ Phạm làng Khê Chanh, cho biết, đã từ nhiều đời họ Phạm Khê Chanh có bài vị thờ ba anh em các cụ Phạm Thuần Dụng, Phạm Công Chính, Phạm Quí Công. Sự tích các cụ được truyền ngôn lại rằng ba cụ đã tử trận từ lâu, song rất nhiều đời nay con cháu chỉ thờ cúng chứ chưa tìm được nơi các cụ tử trận. Sau khi rước di ảnh tượng cụ cao cao tổ Phạm Đức Xim về Từ đường thờ phụng, họ lại nhận được tin vui mới. Tại ba ngôi miếu ở Vân Đồn là Sao ỏn, Quan Lạn và Đông Hồ có thờ ba vị tướng quân thời Trần và tại đền thờ ở Vân Đồn, di tích lịch sử quốc gia, có bia đá ghi chép sử tích của các cụ rất trùng khớp với tên và sử tích của họ Phạm làng Chanh.

Họ đã cử người đến tận nơi tìm hiểu và sau đó liên hệ với Viện Thông tin Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Được sự giúp đỡ nhiệt tình của Viện, đặc biệt là giáo sư Hoàng Giáp đã về Từ đường họ Phạm nghiên cứu các bài vị, sử tích, gia phả, lắng nghe ý kiến của các bậc cao niên trong và ngoài họ Phạm, Giáo sư còn nhiều lần ra Vân Đồn, Hang Son và một số vùng nghiên cứu... Sau hai năm tìm hiểu, sưu tầm, nghiên cứu, giáo sư Hoàng Giáp và cộng sự đã đi tới khẳng định: Ba vị Đô thống là ba anh em họ Phạm từng là phó tướng của Trần Khánh Dư, đã được thờ tại di tích lịch sử quốc gia ở Vân Đồn có nguồn gốc chính xác ở Quảng Yên, Yên Hưng, trùng khớp với tên được ghi trong bài vị ba cụ họ Phạm được thờ tại Từ đường họ Phạm làng Chanh...

Ngày  giỗ tổ đầu xuân 17 tháng giêng Tân Mão 2011, con cháu họ Phạm làng Chanh từ thành phố Hồ Chí Minh và các vùng quê trong cả nước nô nức về dự đại lễ rước sắc phong ba cụ Đô thống họ Phạm  từ Văn chỉ của làng về thờ phụng tại Từ đường. Tại buổi lễ, lãnh đạo địa phương và các ban ngành, đoàn thể, họ tộc rất chú ý lắng nghe giáo sư Hoàng Giáp giới thiệu, phân tích nội dung Sắc phong ba vị Đô thống họ Phạm.

Việc các nhà nghiên cứu lịch sử ban đầu đã xác định chính xác danh tính và nguyên quán của ba vị Đô thống họ Phạm thực sự là niềm vui không những của riêng dòng họ Phạm làng Khê Chanh, bởi chiến công và sự hy sinh của các cụ gắn liền với trang sử vàng chói lọi của dân tộc, muôn đời sử sách mãi còn ghi.

Theo giáo sư Hoàng Giáp, việc họ Phạm làng Chanh dành thời gian, công sức, của cải và trí tuệ tổ chức ngày đại lễ rước sắc phong ba cụ Đô thống họ Phạm về thờ tự cùng với Tướng quân Phạm Đức Xim tại từ đường là rất đáng hoan nghênh; đó là nghĩa cử cao đẹp, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, tôn vinh tiên tổ và để con cháu đời đời ghi nhớ công ơn các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì sự nghiệp giữ gìn non sông đất nước.

Theo Ngọc Khanh / Báo điện tử Quảng Ninh


1434 Phạm Nhữ, nằm ở thôn Hải Yến, xã Yên Hải, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh

Nhà thờ họ Phạm (Phạm Nhữ Lãm), xã Yên Hải, huyện yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh - Di tích Lịch sử Văn hoá - Xếp hạng cấp Quốc gia năm 2004

12/07/2011 00:00

Nhà thờ họ Phạm (Phạm Nhữ Lãm), thôn Hải Yến, xã Yên Hải, huyện yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh - Di tích Lịch sử Văn hoá - Xếp hạng cấp Quốc gia tại Quyết định số: Số 67/2004/QĐ-BVHTT, ngày 10/8/2004 của Bộ Văn hoá Thông tin 

Nhà thờ họ Phạm hay còn gọi là nhà  thờ họ Tiên công, thờ cụ thuỷ tổ của dòng họ là cụ Phạm Nhữ Lãm, tên gọi khác là nhà thờ họ Phạm Nhữ, nằm ở thôn Hải Yến, xã Yên Hải, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh. 

 Năm 1434, Thời Lê, Vua Lê Thái Tông lên ngôi, niên hiệu Thiệu Bình, chủ trương chú trọng phát triển nông nghiệp, khuyến khích nhân dân đi khai hoang, mở rộng diện tích đất canh tác. Khi đó, ở vùng Thăng Long, Nam Định, 23 cụ đã tập hợp người, phát hiện ra khu vực bãi bồi ven cửa sông Bạch Đằng có những điều kiện tốt có thể sinh sống lâu dài, nên cùng nhau quai đê lấn biển, lập nên phường Bông Lưu sau thành xã Phong Lưu, xứ Bản Động sau đổi thành Trung Bản, xã Lương Quy nay là xã Liên Hoà, xã Vị Dương nay là xã Liên Vị. Ở phía tây bắc xã Phong Lưu có cụ Phạm Nhữ Lãm chiêu tập dân nghèo quai đê lấn biển lập nên xã Hải Triền nay là xã Yên Hải. Để tưởng nhớ công lao to lớn của các cụ, con cháu đời sau suy tôn các cụ là các bậc Tiên công và lập nhà thờ thờ phụng. Cụ Phạm Nhữ Lãm còn được phối thờ tại đình Hải Yến.

Nhà thờ họ Phạm (thờ Phạm Nhữ Lãm) được xây dựng từ đời thứ 6 của dòng họ (khoảng năm 1630) trên nền móng bây giờ. Đến nay công trình đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa. Kiến trúc hiện nay gồm sân, bái đường và hậu cung. Kiến trúc theo kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian bái đường và 1 gian hậu cung. 4 bộ vì kèo theo kiểu giá chiêng vẫn giữ được dấu ấn tiêu biểu của thời Nguyễn. Cấu kiện bằng gỗ khá chắc chắn, được chạm khắc hình vân mây cuộn, lá lật uốn luợn, hoa cúc mãn khai...Trong từ đường hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, mỹ thuật như khám trướng, long ngai, bài vị thờ thuỷ tổ, cửa võng, đại tự, hoành  phi câu đối ca ngợi công đức của tổ tiên được nghệ nhân chạm trổ công phu, tỉ mỉ tạo thành những bức tranh nghệ thuật mang dấu ấn thời đại.

Hàng năm, ngày 6 tháng giêng đầu năm âm lịch, con cháu dòng họ Phạm Nhữ lại chuẩn bị mâm lễ đem lên nhà thờ dâng cúng tổ tiên. Sau khi tế lễ, dòng họ có tổ chức ăn uống, các trò chơi dân gian. Tại nhà những gia đình có cụ già thọ 80, 90, 100 tuổi thì trang trí nhà cửa, bàn thờ, long mã, hoành phi, câu đối rất trang trọng để chúc thọ cụ thượng. Con cháu, họ hàng, làng xóm tuỳ theo thứ bậc đến lễ sống hoặc chúc thọ cụ. Ngày 02/12 âm lịch là ngày chạp tổ. Mọi người ra mộ tổ vun đắp để chuẩn bị cho năm mới và làm cỗ đem ra nhà thờ tạ ơn và báo cáo những công việc đã làm 1 năm qua với tổ tiên. Ngoài những ngày lễ chính đó, dòng họ còn tổ chức ngày giỗ tổ vào ngày 23/9 âm lịch và những ngày lễ tết theo phong tục Việt Nam. 

Từ đường họ Phạm (thờ Phạm Nhữ Lãm) được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận giá trị lịch sử - văn hoá và xếp hạng cấp Quốc gia theo Quyết định số 67/2004/ QĐ-BVHTT, ngày 10/8/2004.

https://www.quangninh.gov.vn/So/sovanhoathethao/Trang/ChiTietTinTuc.aspx?nid=10345 


1450 Phạm Thanh Lảnh lấn biển lập nên xã Vị Khê Từ đường họ Phạm Hữu - xã Liên Vị - thị xã Quảng Yên - tỉnh Quảng Ninh

Phạm Thanh Lảnh là người có công đầu tiên quai đê lấn biển và chiêu tập người quai đê lấn biển lập nên xã Vị Khê (vào khoảng năm 1450 - 1460) và các thủy tổ. Trong đó có cụ tổ đời thứ 5 là Quận công Phạm Hữu Tài có công xây dựng đình làng và chùa làng nên được dân làng lập bia đá hậu thần thờ cúng. Từ đường họ còn giành riêng một gian phía tây thờ cụ tổ Phạm Hữu Kỷ đời thứ 7 của dòng họ, cụ tham gia lãnh đạo quân khởi nghĩa ở vùng An Quảng cùng với phong trào Quận He, quận Hẻo, nhân dân trong vùng gọi cụ là cụ Quận tướng quân. Ngoài ra, trong khuôn viên của từ đường họ Phạm còn có ngôi miếu thờ cụ Tổ thần vàng, đó là cụ tổ bà của dòng họ.

Phạm Hữu, làng Yên Mô, tỉnh Ninh Bình- thế kỷ 15

Phạm Hữu Công, Tự Dũng Đức; Hiển Thủy Tổ Tỷ, Hiệu Từ Thiên là đời thứ nhất. Cụ đã sinh cơ lập nghiệp trên mảnh đất Yên Mô xứ này (Ấp Yên Mô, Tổng Yên Mô, Huyện Yên Mô, Phủ Trường Yên nay là Làng Yên Mô Thượng, xã Yên Mạc, Huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, xa xưa gọi là xứ Gia Nô; thời Trần gọi là Mô Độ; thời Minh đổi là Yên Mô) vào thời nhà Lê sơ năm 1460. Đến nay đã có con cháu đến đời thứ 20; có hơn 200 hộ; trên 500 đinh kể người hiện nay có mặt, đang lao động học tập tu trí làm ăn sinh sống ở tại quê và tạm vắng - định cư ở nhiều miền trong nước, có hộ ở nước ngoài.

http://phamtoc.org/pha-ky 

Họ Phạm Văn (Thụ Điền) xã Đông Động huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình- từ thế kỷ 16

Là một dòng họ lớn nhất tại xã Đông Động.

Thế kỷ 16, trong tình hình rối loạn  cuối Trần sang Hồ Quý Ly và chiến tranh với nhà Minh, cụ Tổ đã rời quê Thanh Hoá ra đất Thụ Triền thuộc huyện Cổ Lan lộ Long Hưng ẩn cư tại chùa Kim Sa. 

Sau khi Lê Lợi dành chính quyền lập lại quyền tự chủ dân tộc thì cụ tổ đời thứ 2 đã nhập cư làm dân xã Thụ Triền, trải qua 9 đời độc đinh , tới cuối thế kỷ 16 thì có 4 chi, cả 4 người con đều đỗ đạt.

Trải qua trên 300 năm phát triển, hiện nay con cháu của 4 cụ đã có ngót 1.000 đinh. Ngôi từ đường của dòng họ được xây dựng từ năm 1928, tới năm 2017 thì được xây dựng lại.

https://hophamvietnam.org/ho-pham-van-thu-dien-dong-dong-dong-hung-thai-binh/ 

Theo các văn bản cổ để lại, họ Phạm đến đây đã có hơn 2 thế kỷ. Tức là nếu tính theo năm định cư thì họ Phạm xuất hiện ở đây vào khoảng cuối thế kỷ thứ XVIII đến đầu thế kỷ XIX (khoảng năm 1762 – 1780) cùng thời với Phạm Quí Thích, Phạm Đình Hổ…, tức là vào đầu triều Tây Sơn. Lúc này tình hình trong nước xảy ra nhiều biến động lớn. Về chính trị , bên trong là mẫu thuẫn không thể điều hoà giữa các tập đoàn phong kiếnn thống trị ở hai miền. Miền Bắc, các chúa Trịnh không ngừng bành trướng thế lực của mình. Miền Nam, các chúa Nguyễn ra sức xây dựng đền đài, lăng tẩm. Vua Lê trong triều chỉ là bù nhìn, phần lớn quyền lực tập trung ở phủ chúa. Bên ngoài thực dân Pháp đang nhòm ngó đất nước. Về kinh tế, chiến tranh liên miên đã làm cho nền kinh tế rơi vào trạng thái khủng hoảng, sản xuất trong nước thấp kém tụt hậu nhiều so với các nước xung quanh. Về văn hoá, các ấn phẩm liên quan đến việc vui chơi được quan tâm đến nhiều hơn các loại sách học.

Trong thời điểm như vậy, các vị tổ đầu tiên của dòng họ đã đến mảnh đất xứ Ngõ cầu này làm ăn sinh sống. Ban đầu, vốn có truyền thống với nghề thuốc Nam, các tổ đã giúp đỡ nhân dân trong vùng yên tâm an cư lạc nghiệp trên vùng đất mới và để lại cho hậu thế những trang sử được viết thành văn, dòng họ Phạm chính thức xuất hiện ở mảnh đất như vậy đó.

Quá trình tìm hiểu về nguồn gốc họ Phạm căn cứ vào các văn bản để lại chủ yếu thông qua cuốn Phạm Tộc Gia Phả Tự Thuyết của cụ tổ thứ 6 trong họ viết bằng bản chữ Hán và cụ tổ thứ 8 viết lại bằng bản tiếng Việt.(Trong tài liệu này trình bày cả bản gốc tiếng Hán để người đọc có thể tham khảo, đối chiếu về câu chữ cho phù hợp với cách hiểu của mình). Sau đây tôi xin trình bày bản phiên âm và bản dịch nghĩa của lời tựa cuốn Phả trên.

Phiên âm: “ Cái văn gia chi hữu phả do quốc chi hữu sử. Sử sở dĩ ký sự chính tức phả diệc dĩ ký tính danh hà khả khuyết,  tai sóc. Ngã tộc hệ xuất Phạm gia cao cao thuỷ tổ dĩ hạ cung cần giá sắt đôn hậu, vô cáo quĩ chi ta. Nhị thế tổ dĩ hạ dung dược liệu nhàn cử thế hâm tôn chi khốn. Do thử nhi qua điệp miên miên, cửu tư khấp khấp.

Tử tôn sở dĩ phồn điền thịnh đại vi nhất ấp chi vọng tộc. Tổ tông tích luỹ cơ cần chi sở chí dạ tự phục giả khả bất đoạn thuyết chi hồ. Đệ ngũ thế ư Tự Đức tam thập tứ niên xã nội tế cửu phủ nha cấp bằng vi thị xã Lý trưởng bảo đắc mãn lệ lục niên tinh vô ngộ cữu diệc lưu nhất chi phương danh.

Đệ lục thế sĩ nhân Thành Thái tam niên. Thôi phó Thái Nguyên tỉnh tư vị Bát lưu thư lại chí Thành Thái tứ niên thừa kinh lược đại nhà cấp bằng hoán phó nãi lệnh doãn tỉnh Vũ Nhai huyện nha lại mục do. Ư thử khả bằng tiên âm nhân đức kiêm năng sở đắc phong thổ di lai thừa nhi tả tả thế tiến nhật tắc quang huy minh đức kỳ lai giả dã thảng bất minh ký kỳ sự tích hiểu chủ kỳ danh hiểu tắc nhật hạ dung mệnh danh hoán hiện chi trùng trùng như mộng nhận thứ tự thả chí minh minh yên nhĩ từng giả huyền tôn mĩ thương bình tổ tông chi di thích hạnh dự thánh hiền chi trác ma trùng niệm tổ công tông đức bách thế chi bất thiên chức đoạn sự thừa nạn đại chi như kiến. Do thử cung vi nhất gia chi phả vĩnh thiệu ngã tộc chi công. Thứ sử cung đường chi tôn tổ hoàng hoàng xuân thu tại hưởng. Đào lý chi môn đình dịch tế sư khổng minh quả lũ kỳ như tổ tông huý hiệu thế thứ phần mộ táng toạ hướng xứ tinh liệt vu phả hưởng nhật hạ thư tư trần tích tuỳ tức cánh thư thứ hồ bất cảm gia lữ như hoặc dục chất chính do sĩ hậu chi năng giả lữ như hoặc dục chất chính do sĩ hậu chi năng giả thứ vi tự.”

Dịch nghĩa: “Thường nghe nhà có phả cũng như nước có sử. Sử thì ghi chuyện chính sự còn phả ghi tên tuổi, nguồn gốc. Họ Phạm ta từ đời ông thuỷ tổ chuyên cần trồng trọt. Đời ông tổ thứ 2 về sau chữa bệnh cứu người, giúp đỡ người ta lúc khốn khó. Do đó, con cháu đầy nhà. Vì vậy, thành một vọng tộc lớn trong ấp. Tổ tiên ta thường xuyên tích đức tu nhân nên đến đời thứ 5  thuộc năm Tự Đức thứ 34 đã được làm Lý trưởng. Ông đã làm 6 năm, không để xảy ra khiếm khuyết gì, lưu tiếng thơm trong xã. Đến đời thứ 6 là người có học, vào năm Thành Thái thứ 3 được làm thư lại của tỉnh đường Thái Nguyên cho tới năm Thành Thái thứ 4 thì quan kinh lược cho lại thư lại huyện Vũ Nhai. Có thể thấy (tổ tiên ta) tích âm đức cũng nhiều cho nên đời sau càng ngày càng rực rỡ. (Tuy nhiên) nếu con cháu về sau có chỗ không minh bạch hoặc giả không hiểu về sự tích hoặc có việc thay đổi danh hiệu, trung lặp nhau, khó có thể biết được công đức trăm năm không dứt của tổ tiên. Để đời sau còn như thấy được cha ông, nên soạn cuốn gia phả này để truyền vĩnh viễn công đức của tổ tiên nhà ta. Để làm rạng rỡ miếu đường dòng họ ta, (để tổ tiên) đời đời hưởng cảnh con cháu đến cúng tế (nên) những việc như huý hiệu của các đời tổ tiên, nơi táng phần mộ đều chép vào cuốn phả này đồng thời phân biệt dòng chính, dòng thứ rõ ràng nên gọi là Tự ”.


CÁC ĐỜI CỦA DÒNG HỌ

Sau 10 đời, họ Phạm đã để lại những dấu tích không thể xoá nhoà trong lịch sử làng và mãi về sau con cháu luôn hướng về đó, hướng về những vị liệt tổ liệt tông mà cố gắng xây dựng làng, xã giàu mạnh hơn. Sau đây là tên tuổi và những sự kiện liên quan đến các vị tổ qua các đời.

ĐỜI THỨ NHẤT:

TỔ: Phạm Quý Công Tự Phúc Hằng Huý Viết Tâm Phủ Quân Lập Tiền

TỶ: Phạm Môn Chính Thất Ngô Quí Thị Hiệu Từ Liên Nhụ Nhân Lập Tiền

Dịch nghĩa: Vị tổ đầu tiên trong lịch sử dòng họ, người có công khởi thuỷ cho sự tồn tại của họ Phạm ở làng là Phạm Viết Tâm, tự Phúc Hằng. Cụ có 2 người con, một nam và một nữ. Nam tên là Phạm Viết ***. Nữ viết hiệu Diệu Bính. Cụ mất vào ngày 30 tháng 8 âm lịch hưởng thọ 70 tuổi. Mộ an táng tại thôn Mai Xá. Theo Gia phả để lại cụ làm nghề nông.

Vợ cả của cụ Phạm Viết Tâm, bà họ Ngô tên hiệu Từ Liên. Chữ Từ Liên theo ý mà hiểu là dùng để chỉ sự hiền thảo “Từ” của bông sen “Liên”. Qua chữ phản ánh đức tính của cụ rất hiền từ. Có thể phải có sự nhân từ, sự cảm thông chia mà vợ chồng mới có thể cùng nhau lập nghiệp ở mảng đất mới này. Cũng căn cứ theo câu “Hà hồi huyện đức trạch xã hoà lương thôn ” mà xét có lẽ cụ là người ở vùng huyện Hà Hồi, xã Đức Trạch, thôn Hoà Lương đến đây lập nghiệp, làm ăn cùng chồng. Cụ mất ngày mồng 4 tháng 7 âm lịch. Mộ cụ ở Ngõ Cầu.

ĐỜI THỨ HAI:

TỔ: Phạm Quý Công Tự Xuân Huy Hiệu Phúc Dương Phủ Quân Lập Tiền

TỶ: Phạm Môn chính thất Phùng Nhị Nương Hiệu Diệu Phả Nhụ nhân lập tiền

Dịch nghĩa: Cụ có tên là Phạm Viết ***(chưa tìm được tên – theo suy luận có thể cụ tên Viết Tử vì căn cứ theo cách đặt tên con là Viết Tôn), tự Xuân Huy, hiệu là Phúc Dương. Ngưòi xưa có quan niệm về cái Phúc. Khi sinh sống lập nghiệp ở mảnh đất mới có thể vì muốn hy vọng nâng cao y đức, mở mang dòng họ mà Nhị tổ đã được người đời đặt hiệu là “Phúc Dương” chỉ sự cường thịnh tăng dần. Nó cũng nói lên Nhị tổ làm nghề y và muốn cho cây phúc của gia đình được sinh sôi. Về phần mình, cụ đặt cho mình tên Xuân Huy cho thấy cụ là một người sống phóng khoáng, luôn tin tưởng khả năng của mình sẽ cứu sống, giúp đỡ mọi người. Cụ có 3 con trai và 4 người con gái. Con trai cả là Viết Tôn, con thứ hiệu là Đăng Thục, tiếp theo hiệu là Duy Phiên. Con gái tên tự là Thị Lập, Thị Điển, Thị Vy và Thị Cửu. Nhị tổ mất ngày 25 tháng 2 âm lịch thọ 80 tuổi . Mộ tại Ngõ cầu, rộng 9 miếng.

Nhị tỷ tên là Phùng Nhị Nương, theo ý hiểu có thể là bà là con gái thứ hai của nhà họ Phùng.Tên hiệu của bà là Diệu Phả, có thể hiểu theo ý sự giúp đỡ, che chở những khó khăn của mọi người. Nếu nhìn từ thực tế người là nghề y mà xét, khi thấy mọi người đau đớn vật vã với cơn bệnh thì sự giúp đỡ, chở che của mọi người là điều nên làm. Nhị tỷ mất ngày 16 tháng 3 âm lịch . Mộ táng tại cuối ngõ, phía gần Mả Tre

ĐỜI THỨ BA:

TỔ: Phạm Quý Công Tự Duy Từ Hiệu Phúc Hải Huý Viết Tôn Phủ Quân LậpTiền

TỶ: Phạm Môn chính thất Trần Quí Thị Hiệu Diệu Nguyên Huý Thưởng Nhụ Nhân Lập Tiền

Dịch nghĩa: Vị tổ thứ tư tên là Phạm Viết Tôn, tự Duy Từ, hiệu là Phúc Hảo, Huý viết Tôn có thể ở đây ý nói đến sự tôn quí người trên, nhịn nhường kẻ dưới. Chữ”Tôn” cũng có nghĩa là sự tôn sư trọng đạo, tôn trọng y đức vì cụ là người sẽ được nhị tổ truyền cho kinh nghiệm làm thuốc và cụ cũng là người phát huy truyền thống của nghề làm thuốc cổ truyền của dòng họ. Dân trong vùng đặt hiệu cho cụ là Phúc Hảo để nói lên đức độ và tài danh của cụ trong việc chữa bệnh cứu người. Còn về cụ, cụ tự đặt cho mình tên tự Duy Từ có nghĩa là một sự nhân từ, bao dung với tất cả mọi người. Điều này góp phần thể hiện nét tính cách hiện hoà, tâm thiện từ bi của cụ. Cụ mất ngày 26 tháng 5 âm lịch. Hưởng thọ 60 tuổi. Mộ táng tại Ngõ Cầu rộng 5 miếng đất. Tam tổ sinh hạ được 5 người con trong đó có 3 con trai và 2 con gái. Nam viết Tảo Siêu, thứ nam Đình Am, thứ thứ Phúc Khán. Nữ viết tự Thị Tường, Thứ nữ Thị Luỹ.

Vợ cả của tam tổ là cụ Trần Thị Thưởng, hiệu Diệu Nguyên. Theo ý hiểu có thể là một sự cảm ơn, một tình cảm xuất phát từ cái tình , cái y đức của Tam tổ. Có thể Tam tổ đã từng cứu một người thân của nhà họ Trần, cảm vì ơn đó, họ Trần gả con gái cho tam tổ. Bà mất ngày 26 tháng 11 âm lịch thọ 60 tuổi. Mộ táng tại Vườn Giá, Bình Điền.



ĐỜI THỨ TƯ:


TỔ: Phạm Nhất Lang Tự Tảo Siêu Huý Viết Võ Phủ Quân Lập Tiền

TỶ: Phạm Môn chính thất Đặng quí thị Hiệu Diệu Tự  Huý Sự Nhụ Nhân LậpTiền

Dịch nghĩa: Đây là con trưởng của Tam tổ, cụ vẫn tiếp tục theo cha làm nghề y để cứu người. Cụ tên Phạm Viết Võ, tự Tảo Siêu, chữ Võ hay Vũ. Theo ý hiểu ở đây tức là sự dũng mãnh, chống được tất cả những điều khó khăn trước mắt, tìm được các bài thuốc chữa bệnh, cứu giúp mọi người. Như cơn mưa gột rửa tất cả những bệnh tật của nười bệnh. Chữ Tảo Siêu nếu xét theo nghĩa thì là quay trở lại tìm về những bí quyết gia truyền về thuốc. Có thể ở đây còn là việc dùng kiến thức người xưa và nghiên cứu bản thân phát triển nên để cứu người. Tứ tổ sinh một con trai và hai con gái. Nam viết Quan Thư, nữ viết Thị Chất, Thị Văn. Cụ Quan Thư là con út. Cụ mất ngày 10 tháng 7 âm lịch hưởng thọ 40 tuổi. Mộ táng tại thôn Mai Xá, ở Vườn cũ.

Tứ tỷ là Đặng Thị Sự, hiệu Diệu Tự. Cụ là con gái duy nhất của cụ ông Đặng Văn Chất và cụ bà Phạm Thị Sử, người cùng làng. Cụ là người kính đạo Phật hay đi lễ chùa nên cuộc đời của cụ gắn với cửa Thiền nhiều. Chữ  “Sự” theo ý hiểu có nghĩa là việc đối mặt với khó khăn và giải quyết nó một cách sáng suốt là điều nên làm. Tứ tổ mất từ năm 40 tuổi, cụ một mình tiếp tục nuôi con mong cho con lớn lên trưởng thành, y theo nghiệp tổ tiên quả là điều đáng qúi. Cụ mất ngày 28 tháng 10 âm lịch hưởng thọ 75 tuổi. Mộ chôn tại Xứ Cửa Chùa.

ĐỜI THỨ NĂM:

TỔ: Phạm Qúy Công Tự Quan Thư Hiệu Phúc An Huý Viết Cưu Phủ Quân LậpTiền

TỶ: Phạm Môn Chính Thất Nguyễn Quí Thị Huý Nhượng Hiệu Diệu Từ Nhụ Nhân Lập Tiền

Dịch nghĩa: Ngũ tổ có tên chữ là Phạm Viết Cưu, tự Quan Thư, hiệu Phúc An. Có lẽ do tâm hướng thiện theo người mẹ hay đến chùa mà cụ được đặt tên là Viết Cưu. Chữ “Cưu” có nghĩa là cưu mang, hướng về các đời trước cứu người, làm việc thiện. Mặt khác, do ảnh hưởng của người mẹ, cụ cũng hay đến chùa nên trong tâm sự luôn mang tinh thần từ bi, bác ái, vị tha của đạo Phật, cụ được nhân dân đặt tên hiệu là Phúc An, mong sự an lành sẽ đến. Cụ làm Lý trưởng từ năm Tự Đức thứ 34 đến năm Tự Đức thứ 40 thì nghỉ. Bản thân, cụ rất có ý thức học tập, vì vậy trong các tác phẩm của mình cụ đã lấy tên là Quan Thư, dùng để chỉ ý chí ham học, ham cống hiến, phục vụ đất nước, làm tròn trọng trách của mình trước làng xã. Cụ mất ngày 6 tháng 5 âm lịch hưởng thọ 40 tuổi. Mộ chôn tại Cửa chùa, thôn Bình Điền. Cụ sinh hạ được 2 con trai và 3 con gái. Trưởng nam Vy Mỹ, thứ nam viết tự Hữu Luân. Nữ viết Thị Nhường, Thị Hương, Thị Hinh.

Vợ Ngũ tổ là con gái họ Nguyễn , tên là Nguyễn Thị Nhượng, quê ở làng Vũ Lăng thôn Kiều Thị. Bà là con gái một gia đình gia giáo, nề nếp. Vì vậy khi bà được gả cho ngũ tổ là môn đăng hộ đối. Bà được nhân dân gọi là Diệu Từ, có nghĩa là một người con gái hiền từ, nhân hậu. Bà mất ngày 22 tháng 6 âm lịch hưởng thọ 50 tuổi. Mộ chôn tại làng Vũ Lăng.

ĐỜI THỨ SÁU:

TỔ (1867-1906): Võ Nhai Lại Mục Phạm Quí Công Tự Vy Mỹ Huý Nhân Hiệu Phúc Thân Phủ Quân Lập Tiền

TỶ (1865-1955): Phạm Môn chính thất Trần quí thị tự Sắt Hiệu Diệu Cơ Nhụ Nhân Lập Tiền

Phạm Môn thứ thất Đỗ quí thị huý Đệ Hiệu Diệu Nhị Nhụ Nhân Lập Tiền

Dịch nghĩa: Cụ có tên Phạm Viết Nhân, tự Vy Mỹ, hiệu Phúc Thân. Làm chức Thư lại huyện Vũ Nhai. Chữ “Nhân” ở đây chỉ sự trị nước, tức là muốn mọi người nghe mình thì hay đặt sự nhân đức lên hàng đầu. Con người sống trên đời lấy nhân nghĩa làm trọng. Theo ý ngũ tổ thì lục tổ cần lấy nhân đức làm hàng đầu trong việc làm, có như vậy mới thu phục lòng người. Theo tâm sự của cụ trong Lời Tựa cuốn gia phả, cụ làm thư lại ở Tỉnh đường Thái Nguyên năm Thành Thái thứ 3 rồi sau đó quan kinh lược cho làm thư lại huyện Vũ Nhai vào năm Thành Thái thứ  4. Cụ sinh một nam ba nữ. Nam viết Văn Như , nữ viết Thị Chắt, Thị Vá, Thị Tuất. Cụ mất năm 39 tuổi nhằm ngày 15 tháng 4 âm lịch. Mộ táng tại Xứ Mả Tre, Bình Điền. Đất rộng 9 miếng, toạ hướng Đông, nhìn hướng Tây.

Vợ cả của lục tổ, cụ là Trần Thị Sắt, hiệu Diệu Cơ. Cụ là con của Gia Hoà tiên sinh – Trần Viết Dãnh, thầy dạy của Lục tổ. Hiện chưa rõ cụ là con của bà cả Trần Thị Chúng hay bà hai Nguyễn Thị Lợi. Tuy nhiên chỉ biết rằng khi Lục tổ học ở nhà bà, cụ đã được giữ chức Trưởng môn và lấy được con gái của thầy. Chữ  Sắt có thể hiểu theo nghĩa dù có gặp nhiều khó khăn khi Lục tổ đi công tác liên tục không về nhưng tấm lòng của cụ vẫn hướng về lục tổ. Cụ mất ngày 21 tháng 4 âm lịch hưởng thọ 90 tuổi. Mộ chôn tại Mả Tre, rộng 9 miếng, hướng Tây Nam.

Vợ thứ của lục tổ tên là Đỗ Thị Đệ, hiệu Diệu Nhị. Chữ “Đệ” có nghĩa là sự nhịn nhường giữa hai cụ. Chuyện năm thê bảy thiếp là bình thường của người xưa và những người phụ nữ thường phải chấp nhận, chữ “đệ” có nghĩa là nên coi trọng tình cảm chị em cùng nâng khăn sửa túi cho lục tổ còn hơn là để ganh ghét đố kỵ nhau. Cụ mất ngày 25 tháng 12 âm lịch thọ 67 tuổi. Mộ táng tại Mả Tre rộng 9 miếng

ĐỜI THỨ BẢY:

TỔ (1900-1958): Phạm Quí Công Huý Văn Như Hiệu Phúc Thắng Phủ Quân Lập Tiền

TỶ (1898-1984): Phạm Môn chính thất Nguyễn quí thị huý Quyến Hiệu Diệu Miến Nhụ Nhân Lập Tiền

Dịch nghĩa: Cụ tên là Phạm Văn Như, hiệu Phúc Thắng. Cụ làm Giám điều. Có lẽ chữ “Văn Như” là chỉ cho khả năng suy biến, khả năng về văn thơ  sẽ đạt vào bậc đạo cao đức trọng của làng – đây là hy vọng của Lục tổ khi đặt tên con mình. Cụ có 5 người con 3 con trai và 2 con gái. Nam viết Văn Ý, thứ nam Văn Chí, thứ thứ Văn Uý. Nữ viết Thị Dụ, Thị Hằng. Cụ nhận một con nuôi là Thị Thìn. Cụ mất năm 58 tuổi, nhằm ngày 7 tháng 5 Mậu Tuất (tức ngày 22/6/1958). Mộ ở Mả Tre, hướng Tây Nam. Mộ rộng 9 miếng

Cụ họ Nguyễn, tên là Nguyễn Thị Quyến, hiệu Diệu Miến. Cụ là con của An Phủ Quân Nguyễn tiên sinh và bà Phùng Thị Xưa. Chữ “Quyến” theo ý hiểu có nghĩa là lưu lại, giữ lại nề nếp gia phong của tổ tiên. Chẳng thế mà cụ đã cùng con cháu xây đắp thêm cho dòng họ ngày càng tốt hơn. Cụ mất ngày 29 tháng 12 năm Quí Hợi (31/1/1984) hưởng thọ 86 tuổi. Mộ chôn tại Mả Tre., rộng 9 miếng, hướng Đông Bắc – Tây Nam

ĐỜI THỨ TÁM:

TỔ (15/11/1917- 18/10/2010): Phạm Quí Công Huý Văn Ý Phủ Quân Lập Tiền

TỶ (1913-1972): Phạm Môn chính thất Nguyễn quí thị hiệu Diệu Hồng Huý Thước Nhụ Nhân Lập Tiền

Dịch nghĩa: Cụ tên Phạm Văn Ý, sinh được 5 người con gồm 3 nam và 3 nữ. Trưởng nam Bình Thức, thứ nam Nguyên Phương, thứ thứ Nguyên Quang. Nữ viết Ngọc Châm, Thị Hải Hợp, Lệ Hà. Cụ học thời Pháp, học cả chữ Nho. Cụ có công trong việc thành lập lại họ và ấn định ngày giỗ họ vào ngày 25 tháng 2 hàng năm. Cụ là người dịch cuốn Gia Phả này ra quốc ngữ để lưu truyền hậu thế cho đời sau con cháu có thể tìm đọc và tra cứu, biết được truyền thống của dòng họ, để dòng họ Phạm mà truyền đời ở trên mảnh đất quê hương. Cụ mất ngày 11 tháng 09 năm Canh Dần (tức 18/10/2010) hưởng thọ 94 tuổi. Mộ chôn tại Mả tre, Xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội.

Vợ Bát tổ là Nguyễn Thị Thước. Cụ sinh trong một gia đình thương nghiệp, quê ở làng Hạ Thái, huyện Thường tín, tỉnh Hà Tây. Cha là Nguyễn Duyệt, mẹ là cụ Tạ Thị Đa. Cụ mất ngày 7 tháng 4 năm Nhâm Tý (tức 9/5/1972) hưởng thọ 52 tuổi. Mộ chôn tại Mả tre, thôn Khoái Châu, xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Mộ rộng 9 miếng, hướng Đông Tây.


Đệ

Thế Tổ

Kỵ

Thế Tỷ

Kỵ

Nhất

Phạm Viết Tâm

30/8

Ngô Thị ***

4/7

Nhị

Phạm Viết ***

25/2

Phùng Nhị Nương

16/3

Tam

Phạm Viết Tôn

26/5

Trần Thị Thưởng

26/11

Tứ

Phạm Viết Võ

10/7

Đặng Thị Sự

28/10

Ngũ

Phạm Viết Cưu

6/5

Nguyễn Thị Nhượng

22/6

Lục

Phạm Văn Nhân

15/4

Trần Thị Sắt

Đỗ Thị Đệ

21/4

25/12

Thất

Phạm Văn Như

7/5

Nguyễn Thị Quyến

29/12

Bát

Phạm Văn Ý

11/9

Nguyễn Thị Thước

7/4


CÁC VỊ TỔ ĐƯỢC NHẬP TỪ ĐƯỜNG

Bên cạnh những vị đã lập gia đình bất cứ dòng họ nào cũng còn có những vị chưa lập gia đình. Bổn phận của con cháu đời sau là phải thắp hương cúng nguyện cho các vị. Dòng họ Phạm không nằm ngoài tục lệ đó. Xem lại trang gia phả tôi thấy rằng gần như đời nào họ tôi cũng có những người chưa lập gia đình đã mất, hoặc có người đã hy sinh khi vẫn còn đang tuổi thanh niên trai tráng.Thường theo ngôn ngữ dân gian thì những người chết khi chưa lập gia đình được gọi là các bà cô, ông mãnh. Còn theo gia phả thì thường ghi là “công cô”, “muội đệ” hoặc “thân nữ” với người con gái là thế hệ trên, bằng thế hệ, dưới thế hệ của người ghi gia phả. Còn với nam giới thì hay dùng từ “quí công” đi với họ tộc. Trong cuốn gia phả này, tôi là cháu đời sau của các cụ vì vậy nên mới dùng chữ công cô là thế. Để tiện theo dõi dưới đây là danh sách những các vị thứ tổ và công cô.



THỨ TỔ , CÔNG CÔ

KỴ

ĐỆ TAM THẾ THỨ

Phạm Quí Công tự Đăng Thục hiệu Tảo Thoát

(Táng tại Ngõ Cầu)

4/10

ĐỆ TỨ THẾ THỨ

Phạm Tam Lang tự Phúc Khán huý Lãm

(Táng tại Ngõ Cầu)

27/9

ĐỆ NGŨ THẾ THỨ

Công cô Phạm Thị Văn

(Táng tại Mả Tre)

22/4

ĐỆ NGŨ THẾ THỨ

Công cô Phạm Thị Chất

(Táng tại Ngõ Cầu)

6/3

ĐỆ LỤC THẾ THỨ

Công cô Phạm Thị Hương

(Táng tại Ngõ Cầu)

7/3

ĐỆ THẤT THẾ THỨ

Công cô Phạm Thị Tuất

(Táng tại Mả Tre)

20/4

ĐỆ BÁT THẾ THỨ

Phạm Quí Công huý Văn Uý

(Táng tại nghĩa trang Trà Châu, Thanh Liên, Hà Nam)

19/4

ĐỆ CỬU THẾ THỨ

Công cô Phạm Thị Ngọc Châm

(Cụ mất khi còn nhỏ, không biết mộ ở đâu?)

?

Chú thích: Về cụ Phạm Văn Uý xin được giới thiệu thêm. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, cụ đã hy sinh vào những ngày sau chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ. Ngày mất của cụ ghi theo giấy báo tử là 21/5/1954 (tức ngày 19 tháng 4 năm Giáp Ngọ)


Hậu duệ đời thứ 10

Phúc Tiến Phạm Quốc Tuấn

biên soạn lại theo Cuốn Gia Phả dòng họ

Nguồn tin: Họ Phạm Hà Nội


1788 Họ Phạm Văn làng Quảng Hạ (xã Yên Thắng, Yên Mô, Ninh Bình)

GIA PHẢ HỌ PHẠM VĂN LÀNG QUẢNG HẠ


LÀNG QUẢNG HẠ  

1. Tự nhiên và xã hội  


- Thời Pháp thuộc, Quảng Hạ thuộc Quảng Nạp (Quảng Nạp gồm Quảng Thượng, Quảng Hạ), tổng Đàm Khánh. Nay Quảng Hạ thuộc xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Làng nằm về phía Đông Nam xã Yên Thắng. Phía Bắc giáp với xóm Đông Tân[1], phía Đông giáp với làng Trinh Nữ[2] xã Yên Hoà; phía Nam giáp với làng Thượng Phường[3] xã Yên Thành; phía Tây Nam là hồ Yên Thắng, bên phía bờ Nam của Hồ là đất đồi rừng của Quảng Hạ canh tác, tiếp giáp với xã Đông Sơn thị xã Tam Điệp[4]; phía Tây giáp với làng Quảng Thượng và làng Bình Hào.  

- Quảng Hạ có diện tích tự nhiên khoảng 180 ha, trong đó trên 80 ha đất canh tác trồng lúa. Thổ nhưỡng phù sa cổ, bán sơn địa. Tài nguyên, đất đai có đồng ruộng trồng lúa nước, có đất bái trồng rau mầu, có đất đồi rừng, có núi đá vôi, có hồ Yên Thắng.

- Theo địa giới cổ, đất Quảng Hạ phân ranh từ chân phía Đông Nam núi Cháy tới đỉnh núi Me – tiếp nối đến chân Đầu Đồi – cắt về núi Quéo, chạy vòng cánh cung lõm tới nửa dãy núi Tè, ngược lên phía Bắc đến Đông Tân, trở sang chân núi Cháy. Trên đỉnh núi Me có xây Văn bia địa giới giữa Quảng Thượng và Quảng Hạ, đến những năm 1975 - 2000, dân làng khai thác đá, san bằng núi Me thì bia Văn chỉ này cũng không còn. Nhìn bản đồ cổ Quảng Hạ có hình dáng như lục giác có 5 điểm núi chung quanh, mặt hướng Bắc có xóm tiền tiêu Đông Tân giáp hẳn vào làng Hải Nạp. Ngoài ra Quảng Hạ có đất rừng canh tác ở Đồng Hóc, giáp với Tràng Khê Thượng, xã Yên Đồng và giáp với rừng núi của huyện Hà Trung, nay là thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ở đó có cây đa, còn gọi là cây đa Quảng Nạp.

- Sau Cải cách ruộng đất năm 1956, đất đai Quảng Hạ một phần cắt về Quảng Thượng (toàn bộ dải phía Tây), một phần cắt về xã Yên Hoà (toàn bộ dải phía Bắc); ngược lại được nhận khá nhiều đất đồi rừng và đất ven rừng (ở phía Tây Nam) nguyên là đất của làng Bình Hào[5]. Đất rừng ở khu vực Đồng Hóc giao về cho Hợp tác xã kinh tế mới Mùa Thu, nay là xã Đông Sơn, thị xã Tam Điệp.

- Quảng Hạ có cả thảy 6 xóm, trong đó 4 xóm tại làng là xóm Mả Giang, xóm Đình, xóm Đầm, xóm Tè. Đông Tân là 1 xóm lâu đời của Quảng Hạ, đến năm 1956 nhập vào xã Yên Hoà. Xóm Rừng cách làng hơn 1 km về phía Tây Nam. Năm 2007 toàn bộ đất đai canh tác của Quảng Hạ ở đồng Bát, ở xóm Rừng và các hộ dân ở đây bị giải toả để giao đất cho dự án xây dựng sân golf hồ Yên Thắng (sau đổi tên là sân golf Hoàng Gia), số hộ dân ở đây phải di dời tìm nơi định cư mới.

- Quảng Hạ có 2 dòng họ đông dân là họ Phạm và họ Bùi; họ Nguyễn và họ Trần chiếm số ít, tất cả đều là dân tộc Kinh. Trong họ Phạm có nhiều chi như: Phạm Văn, Phạm Như, Phạm Đình, Phạm Ngọc.

- Dân số Quảng Hạ vào năm 1979 có 487 người; năm 2009 có 595 người. Người dân gốc Quảng Hạ đi học tập, công tác, làm ăn sinh sống ở nơi khác khoảng 600 người. Có các mốc diễn biến dân cư lớn đối với Quảng Hạ:

Thời Pháp thuộc trước năm 1945, có nhiều người đi sang Lào, Thái Lan làm ăn, sinh sống; sau năm 1975, một số người khá giả đã trở về thăm làng quê, họ hàng. Theo lời kể của ông Phạm Gia Lộc vào những năm trước 1945 có đến nửa số đinh trong làng phải tha hương đi sang Lào kiếm sống. Trong số đó có nhiều người không trở về làng.

Giai đoạn từ 1981 đến 1990 có 2 đợt di dân đi kinh tế mới vào tỉnh Gialai theo chủ trương của nhà nước và 2 đợt di dân lên rừng lập xóm mới trên địa bàn xã (xóm Rừng và xóm Cầu Cọ) theo chủ trương của địa phương.

Từ trước và sau năm 1975 đến nay có nhiều người đi học, đi bộ đội, đi công nhân, đi làm ăn, đi công tác đã định cư ở nhiều nơi trong cả nước (số này đi rải rác, nhưng chiếm tỷ lệ khá đông so với dân cư trong làng). Trong số họ, có nhiều người trưởng thành là những cán bộ, công chức, kỹ sư, giáo viên, bác sĩ, doanh nhân v.v... Dù làm ăn, sinh sống ở đâu họ vẫn luôn ý thức nhớ về cội nguồn, dành tình cảm đặc biệt cho quê hương. 

- Ngôi đền làng thờ 5 vị thần thời Hùng Vương thứ 6 vốn là dòng dõi Vua Hùng trấn thủ vùng Nam Lĩnh là: Chàng Hoàng, Quý Nương, Chàng Cả, Chàng Hai, Chàng Ba. Đền có cách nay hàng nghìn năm, có nhiều sắc phong gắn với Đền Năn được chia ra thờ ở 2 đền của Quảng Nạp. Sân đền có 4 cây muỗm, 2 cây vào hàng đại thụ quí hiếm, cây muỗm lớn nhất ba người ôm, có niên đại trên 300 năm tuổi. 

- Cách đền vài trăm mét là đình làng được xây dựng trên nền đất cao, thoáng rộng ngay đầu làng; có cây đa, giếng nước, ao đình. Đình làng do bị gió bão làm đổ, lúc ấy đang trong thời gian kháng chiến chống Pháp, dân làng không có điều kiện dựng lại được, đến năm 2008 làng xây dựng nhà văn hoá thôn ngay trên nền đình. 

- Chùa thờ Phật có tên là Hào Khê Tự cách làng khoảng 500 mét về phía Đông, nơi diễn ra sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo của dân làng từ nhiều đời nay. Khuôn viên của chùa rộng rãi, nằm trên địa thế đất đẹp, thoáng mát. Chưa rõ chùa xây từ thời kỳ nào nhưng đã từng có tiếng trong vùng và trải qua nhiều lần tu bổ.

- Cạnh Chùa về phía Nam có Phủ Tè (Phủ Tề Sơn), hàng năm vào ngày 21/7 âm lịch dân làng tổ chức cúng bái, lên đồng. Sau Phủ có cây đa đại thụ mấy trăm tuổi sum xuê giữa cánh đồng, quanh năm xanh tốt.

- Ở phía Bắc của làng có miếu Thổ công, ao Gò, là một trong số ít miếu Thổ công ở làng quê còn đến ngày nay. Gần đấy có đống sành, tương truyền rằng đống sành là bến thuyền, nơi cư trú của bậc tiền nhân cổ xưa khi đến đây lập nghiệp.

- Phía Tây bắc có Mả Cọ, trong Mả Cọ có Cống Giáo, Phủ thờ Liễu Hạnh, Trường Đấu; cạnh Phủ thờ bà Liễu Hạnh có cây lộc vừng thuộc hàng đại thụ quý hiếm.

Nói về Mả Cọ là đặc thù của Quảng Hạ. Sở dĩ có tên “Mả Cọ” chứ không gọi rừng cọ, vườn cọ, mán cọ là ở đây cọ mọc tự nhiên nguyên thuỷ, trong quá trình khai phá đất đai canh tác rất khó khăn, do dày đặc quá nó còn cù lại nên người dân gọi là “Mả”. Thuở sơ khai hoang dã, nhiều người đến đây từng bị trăn quấn, rắn độc cắn, muỗi đốt sốt rét về nhà ốm mà chết. Người dân phải cúng tế cầu mạng phước lành, từ đó Mả Cọ trở thành chốn linh thiêng không ai dám vào chặt phá trộm, vì vậy nó được người dân giữ gìn và tồn tại đến ngày nay. Theo truyền thống cứ 2 năm 1 lần dân làng tổ chức khai thác lá cọ làm chổi, lợp nhà, thu dây guột buộc thuyền, nhặt tầu cọ già, nhặt buồng cọ nỏ làm củi v.v... Ở các bầu cọ và thảm thực vật dưới chân là nơi chim chóc, chồn cáo, trăn rắn, ong kiến làm tổ, cư trú. Đặc biệt có nhiều diều hâu và quạ làm tổ ở ngọn cây; đến khoảng những năm 1970 – 1980 thì diều hâu và quạ thưa dần và mất tích, chưa rõ vì sao. Chưa có nhà khoa học nào về đây thống kê xem ở Mả Cọ có bao nhiêu loài chim, thú, thực vật, giá trị của nó đến đâu, nhưng điều dễ thấy tại Mả Cọ có hệ sinh thái đa dạng, đặc trưng, rất độc đáo ở đồng bằng Bắc bộ. Vào những năm 1970, ở làng quê làm ăn tập trung theo mô hình Hợp tác xã nông nghiệp, do công tác quản lý chưa tốt nên Mả Cọ từng bị phá hoại nặng nề, nhiều cây cọ bị chặt, chim thú bị săn bắn, nhiều cây củ-dây leo bị đào bới khai thác làm thuốc, gần đây nhiều cây bị đánh làm cây cảnh. Nay Mả Cọ được bảo vệ nhưng chậm phục hồi, vì tuổi đời của những cây cọ và cây dưới tán có niên đại hàng mấy trăm năm đã bị mất.

Cây cọ ở Mả Cọ có kẽ lá sâu, tay cọ bám chắc vào thân, khi đạt tới dăm bảy chục năm tuổi tay cọ mới tróc hết để lộ thân cây nhẵn như thân dừa, đồng thời tạo bầu ở ngọn. Khi đối chiếu, cọ ở đây giống với cọ ở Thanh Hoá hơn là cọ ở vùng Phú Thọ. Qua xem xét độ cao của cây, nhiều cây cọ đã có mấy trăm năm tuổi. Thường là những cây cọ cao, không còn khả năng leo lên lấy lá thì chặt, thân cọ đem bắc cầu, làm chuồng trâu bò. Các cụ trong làng cho biết: “Khi tôi lớn lên đã thấy Mả Cọ có như bây giờ rồi”. Quả vậy, bất chấp bão giông, lụt úng, hạn hán, giá rét, Mả Cọ quanh năm vẫn xanh ngát tốt tươi, sừng sững giữa đồng hàng nghìn năm tuổi. Điều lý thú từ mấy chục năm nay, dân Quảng Hạ trồng nhiều cọ trong vườn nhà. Nhìn từ xa, làng Quảng Hạ đang hình thành dáng dấp “Mả Cọ” thứ 2. Phải yêu cọ lắm người dân mới có hành động này. Hồn quê hương trong bầu Mả Cọ, chả vậy những người xa quê khi gặp nhau đều nhắc đến Mả Cọ, Đền làng. Cây cọ là biểu tượng của dân làng Quảng Hạ: thân cọ mọc thẳng, rễ bám vững chắc vào lòng đất, lá xanh tươi bốn mùa, mưa lụt không làm úng gốc, bão tố không làm gãy đổ, sống lâu năm thành cổ thụ, có sức chịu cho nhiều loài dây leo, chim chóc cư trú. Với tố chất như vậy, dù không phải cây thuộc hàng thanh tao như tùng, mai, thiên tuế, cau vua v.v.. nhưng cây cọ lại đang được nhiều doanh nhân chọn làm cây biểu tượng đưa về trồng tại công sở mình.

- Dân Quảng Hạ thuần tuý theo đạo Phật; thờ thần, thờ tổ tiên. Phong tục tập quán, sinh hoạt văn hoá đều giống các làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Giọng phát âm người dân Quảng Hạ hơi nặng, nhiều người phát âm không phân biệt giữa âm có dấu hỏi, dấu ngã mà thường phát âm thành dấu hỏi.

Quảng Hạ hội đủ các yếu tố là một làng cổ, điển hình ở vùng đồng bằng Bắc bộ mà không phải làng nào cũng có những di sản văn hoá nêu trên.

- Xã Yên Thắng nổi tiếng với hồ Yên Thắng mênh mông, phong cảnh tươi đẹp, non nước hữu tình. Lòng hồ có diện tích khoảng 300 ha, là hồ nhân tạo được xây dựng trong những năm 1960 với mục đích thủy lợi, ngăn chặn nước từ rừng núi Tam Điệp đổ xuống tránh ngập úng vụ mùa, tích nước để tưới ruộng khi hạn hán. Người có công khởi xướng, được tập thể và cấp trên phê duyệt đã trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy công trình đắp đập Đồi Chuông, xây hồ Yên Thắng là ông Phạm Gia Lộc, người Quảng Hạ, lúc ấy là Chủ tịch Uỷ ban hành chính và ông Dương Tư Cách, người Trà Tu, là Bí thư Đảng bộ xã Yên Thắng. 

Hồ Yên Thắng có hồ trên[6] và hồ dưới. Hồ trên giáp với Quân đoàn 1, phường Trung Sơn, thị xã Tam Điệp được xây dựng vào năm 1959 - 1960; từ hồ trên nối với hồ dưới được phân cách bởi đập tràn Đồi Chuông. Từ đập Đồi Chuông tới đập Tiên Dương dài 6 km là hồ dưới, đoạn phình to ở hồ dưới là đồng Bát có chiều rộng gần 1 km. Hồ được xây dựng suốt những năm 1961 – 1965 và nhiều kỳ gia cố tu bổ đê điều. Hàng chục nghìn lượt dân công, thanh niên huyện Yên Mô đã được huy động về đây xây dựng con đê khổng lồ hồ Yên Thắng; con đê này còn có tên Vĩnh Lợi - một công trình mang tên huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu kết nghĩa với tỉnh Ninh Bình trong kháng chiến chống Mỹ. Đa phần diện tích lòng hồ là đất canh tác của Hợp tác xã Quảng Bình (Quảng Bình gồm: Quảng Thượng, Quảng Hạ, Bình Hào, Cầu Mễ) và làng Thượng Phường, làng Bát xã Yên Thành. Dưới lòng hồ có rất nhiều cá, tép là đặc sản của vùng, lại có nhiều vịt trời, cò, két đến mùa di trú về kiếm ăn, sinh sống.

- Phía bờ Nam của hồ trên, hồ dưới là đất đồi rừng của Hợp tác xã Quảng Bình, được nối liền với đồi rừng của xã Yên Thành theo chân dãy núi Tam Điệp. Toàn khu vùng đất đồi rừng này có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, thuận lợi giấu quân, linh hoạt ra Bắc vào Nam[7]. Trong kháng chiến chống Mỹ đây là nơi luyện tập, trung chuyển nhiều đơn vị bộ đội, khí tài cho chiến trường miền Nam; là nơi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt chống máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc. Hiện tại, nơi đây là đại bản doanh của Quân đoàn 1 - Binh đoàn Quyết Thắng, là một trong bốn binh đoàn chủ lực của quân đội nhân dân Việt Nam.

- Đất đồi rừng trồng nhiều loại cây như chè, sắn, khoai, mía, củ từ, dong, cây ăn quả, cây lấy gỗ; trong đó chè xanh là sản phẩm nổi tiếng của làng Quảng - Mễ, vải hiến là sản phẩm nổi tiếng của làng Bình Hào, làng Bát, Thượng Phường. Đất ruộng trồng lúa nước, nuôi cá. Đất bái trồng rau, ngô, khoai, lạc, đậu, vừng v.v.. Chăn nuôi chủ yếu là lợn, trâu, bò, dê, gà, vịt. Quảng Hạ cùng với Quảng Thượng, Bình Hào (trong HTX Quảng Bình), làng Thượng Phường, làng Bát (trong HTX Bạch Liên) điển hình về sự đa dạng thổ nhưỡng và sản vật “mùa nào thức ấy”, nhưng do đất đai bị mất quá nhiều (do làm hồ Yên Thắng, do cắt làm nông trường Chè Tam Điệp, cắt đất cho khu kinh tế mới Mùa Thu, nay lại chuyển đất cho dự án làm sân golf Hoàng Gia), truyền thống canh tác nhỏ lẻ, phân tán, phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên nên năng suất thấp, lại ít ngành nghề phụ nên đời sống kinh tế của người dân bị thiếu hụt, lam lũ quanh năm.

- Núi Tè là núi đá vôi, một tài nguyên có giá trị. Đây là dãy núi có chung địa giới với làng Thượng Phường, làng Trinh Nữ. Hai quả núi lớn nhất ở phía làng Trinh Nữ đã bị khai thác đá rất nhiều, nhìn ngọn núi nham nhở đến thảm hại, không khỏi xót xa. Trong thung núi có 1 ao khá lớn giọi là Ao Bèo (vì có nhiều bèo), nay dãy núi bao quanh ao đã bị khai thác trụi đá. Đoạn núi ở phía Thượng Phường và Quảng Hạ còn giữ được gần nguyên thuỷ, nhưng cũng có nguy cơ bị khai thác bất cứ lúc nào. Trong núi có nhiều hang, trong đó có 1 hang khá rộng gọi là Hang Dơi (vì trong hang có nhiều dơi), có lỗ thông sáng lên đỉnh núi. Những năm kháng chiến chống Pháp, du kích Quảng Hạ lấy nơi đây là căn cứ hoạt động, ẩn nấp để đánh địch. Những năm Mỹ đánh phá miền Bắc ác liệt, khi có lệnh sơ tán, dân làng Quảng Hạ cũng chạy vào hang núi Tè trú ẩn[8].

- Giao thông đi lại của dân làng bằng đường thủy và đường bộ. Nếu trước đây nhà nào cũng sắm thuyền để đi lên rừng và đi trong mùa lụt thì nay nhà nào cũng có xe. Từ sau năm 1975 đường bộ đã thay thế đường thủy. Đường làng đã rải nhựa và bê tông hoá, thuận lợi cho xe cơ giới đi lại. Làng có 3 cổng ra – vào là phía Tây, phía Bắc và phía Đông. Cổng phía Tây là cổng chính, lối lên Quảng Thượng đi về trung tâm xã. Cũng từ phía Tây lên đê hồ Yên Thắng, đi thị xã Tam Điệp. Từ cổng phía Bắc đi qua xã Yên Hoà về trung tâm huyện lỵ Yên Mô.

- Trước, trong và sau năm 1945, dân Quảng Hạ có nhiều người đi hoạt động cách mạng, tham gia du kích địa phương và đi bộ đội, nhiều người đã anh dũng hy sinh trong kháng chiến và bảo vệ Tổ quốc[9]. Đội du kích Quảng Hạ[10] trong kháng chiến chống Pháp hoạt động mạnh, lập nhiều chiến công đánh địch, diệt ác, phá tề. Trong thời kỳ xây dựng đất nước, nhiều người có trình độ đại học, trên đại học, là cán bộ - đảng viên, doanh nhân thành đạt. Đó là sự trưởng thành của thế hệ con cháu ngày nay góp phần làm rạng danh quê hương Quảng Hạ.

2. Cội nguồn làng Quảng và dấu tích ngón chân Giao Chỉ

Thuở xa xưa chưa rõ dân cư từ đâu đến khai phá vùng đất này. Theo truyền miệng kể lại, các bậc cổ nhân đến đây sống nghề chài lưới từ khi biển còn gần. Làng phía bên trong dãy núi Cháy là Quảng Nạp, phía bên ngoài núi Cháy gần với biển là Hải Nạp. Làng Quảng Nạp ban đầu có thôn Thượng và thôn Hạ. Khi mỗi thôn phát triển đông dân cư, hình thành thiết chế văn hóa riêng của mỗi làng được gọi làng Quảng Thượng, làng Quảng Hạ, nhưng vẫn chung trong làng Quảng Nạp.

Quảng Nạp thường được gọi tắt là làng Quảng, có lịch sử văn hoá lâu đời, hình thành và phát triển mang trong mình nhiều yếu tố rất có giá trị về di sản văn hoá, sau đây là một số giá trị điển hình:

- Từ Quảng Hạ nhìn về phía Đông Nam có cụm núi đá vôi, cách ranh đất của làng khoảng 500 mét là khu di chỉ Mán Bạc quốc gia, nay thuộc Bạch Liên xã Yên Thành. Trong các cuộc khai quật vào những năm gần đây, các nhà khảo cổ học phát hiện một số lượng hiện vật lớn đồ đá, đồ gốm chôn theo mộ táng có niên đại cách ngày nay từ 3.000 đến 4.000 năm. Phát hiện nhiều xương thú cùng những mũi tên, mũi lao làm từ xương và đá. Theo các nhà khảo cổ học cho biết, đây là một làng của người cổ sống cách chúng ta ngày nay từ 3.000 đến 4.000 năm. Nơi đây lưu giữ được nhiều di cốt của tiền nhân còn nguyên vẹn được các nhà nhân chủng học hết sức chú ý. Hiện nay các di cốt này được bảo quản nguyên vẹn tại Bảo tàng tỉnh Ninh Bình phục vụ cho việc nghiên cứu và trưng bày.

- Cách Quảng Hạ khoảng 500 mét về phía Nam có di tích khảo cổ học Đồng Vườn, nay thuộc làng Thượng Phường, xã Yên Thành là một di chỉ thuộc thời đại văn hóa Đa Bút. Cho tới ngày nay đây là di chỉ cư trú ngoài trời duy nhất trên đất Ninh Bình.

- Giáp với Quảng Thượng khoảng hơn 100 mét có Đền Núi Hầu thuộc làng Bình Hào[11], hiện còn giữ được 5 sắc phong, trong đó có một sắc phong thời Tây Sơn, đời Cảnh Thịnh năm thứ tư (1796). Nội dung sắc phong có lời tôn vinh vị thần được thờ tại đền là Cao Sơn Đại Vương. Theo như thần phả của đền Núi Hầu đã được cụ Lê Xuân Quang dịch thì vị thần Cao Sơn Đại Vương chính là Lạc Tướng Vũ Lâm, con thứ 17 vua Lạc Long Quân; vâng mệnh vua anh là Hùng Vương thứ Nhất đi tuần vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, liền lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang Lang (hiện nay dân làng vẫn gọi cây Quang Lang hay cây búng báng). Năm Mậu Thân (1788) Vua Quang Trung tiến quân ra Bắc đánh quân Thanh, khi dừng chân ở Tam Điệp đã đóng hành doanh ở đồi Ông Vua cách ranh đất Quảng Hạ khoảng 600 mét về phía Nam (nay đồi Ông Vua thuộc sân golf hồ Yên Thắng - sân golf Hoàng Gia), trước khi tiến quân ra Thăng Long đã cầu thần Cao Sơn âm phù diệt giặc. Sau chiến thắng giặc Mãn Thanh, năm Quang Trung thứ hai có phong duệ hiệu của thần: Cao Sơn, Linh cảm, Diên Huống, Gia Khánh, Phương Du, Hồng Liệt, Anh Thanh Đại Vương.

- Ở Quảng Thượng có Đền Năn thờ 5 vị thần thời Hùng Vương thứ 6 vốn là dòng dõi Vua Hùng trấn thủ vùng Nam Lĩnh là: Chàng Hoàng, Quý Nương, Chàng Cả, Chàng Hai, Chàng Ba. Ngày nay tại đền Năn còn lưu giữ khẩu súng thần công và 2 đồng tiền thời Quang Trung, đã phản ánh dấu tích sự kiện lịch sử vua Quang Trung hội quân ở đây để tiến về Thăng Long tiêu diệt giặc Mãn Thanh.

- Tại Quảng Thượng có Toà thành Thiên Phúc do vua Lê Đại Hành xây dựng vào cuối thế kỷ thứ X. Thành xây trên khu đất cao đầu làng, xung quanh thành có luỹ đất, có chiến hào, có bến thuyền. Trong thành có kho gạo gọi là Mễ Sở[12], có chỗ chăn nuôi lợn để bảo đảm thực phẩm cho quân sĩ, lại có núi Yên Ngựa (núi Cháy), núi Vương Ngự (núi Mỏ Phượng), nơi nhà vua lên quan sát binh tình.

- Cách Quảng Thượng khoảng hơn 2 km về hướng Tây có di tích khảo cổ học hang Chợ Ghềnh hay còn gọi là hang Núi Một, thuộc phường Bắc Sơn thị xã Tam Điệp thuộc thời đại kim khí cách ngày nay từ 2.000 đến 3.000 năm.

- Mả Cọ Quảng Hạ là rừng cọ nguyên sinh còn sót lại duy nhất trên đất nước Việt Nam, những thân cọ có niên đại hàng mấy trăm tuổi. Trong Mả Cọ có bãi đất trống, bằng phẳng gọi là Trường Đấu. Từ trước Công nguyên các tướng đời vua Hùng thường về đây đóng quân tập trận, lập Trường Đấu làm nơi tổ chức các cuộc đấu võ, đấu kiếm, thi tài. Cạnh Trường Đấu có cánh đồng rộng, bằng phẳng gọi là Đồng Quan (khác với ruộng quan), nơi quan quân cấm trại. Trong Cải cách ruộng đất (1955-1956) Trường Đấu được khai mở trở lại, làm nơi đấu tố gian ác, địa chủ cường hào trong vùng (trong đó có nhiều người bị hàm oan).

- Cư dân làng Quảng hiện nay vẫn xuất hiện một số người có ngón chân cái dài quạc ra như bàn chân ông Phạm Văn Tựa, Phạm Văn Hảng, Phạm Văn Khảm. Dân làng truyền rằng: đã giấu được đàn ông vào hang núi Tè tránh thảm họa giết phu của giặc phương Bắc. Những ai ngón chân cái dài quạc ra ấy là người Giao Chỉ. Các ông đều cao lớn trong làng, các mạch máu, gân guốc ở chân nổi đầy lên, khác với chân người bình thường.

Như vậy, nhìn làng Quảng trong không gian văn hoá thời tiền sử từ 2.000 đến 4.000 năm có chứng cứ khảo cổ học là di chỉ Mán Bạc, di chỉ hang Chợ Ghềnh, di tích khảo cổ học Đồng Vườn; lịch sử thời dựng nước và giữ nước của các Vua Hùng còn được ghi lại qua những sắc phong; dấu tích di truyền ở ngón chân cái của người Giao Chỉ. Bên cạnh có làng Bình Hào cổ xưa đông đúc, làng Bát phồn vinh[13]. Từ đó cho thấy cư dân đã lập nên làng Quảng từ rất sớm, ngay trong buổi bình minh dựng nước của dân tộc Việt Nam./.

Ngày 12 tháng 12 năm 2012

Phạm Văn Uýnh 



[1] Đông Tân là một xóm lâu đời của Quảng Hạ. Theo lời kể: Thời xưa đồng ruộng hoang hóa còn nhiều, mùa lụt cả vùng đều trắng băng, khi nước rút tiện đâu thì dân ở đó làm ruộng. Khi quan trên cho vẽ bản đồ phân ranh địa giới ruộng đất giữa các làng; lúc ấy dân làng Quảng Hạ làm nghề đơm đó nên đã be bờ trước. Làng Hải Nạp thấy vậy cho người ra tranh chấp đòi ruộng về phần mình. Quảng Hạ huy động lực lượng, ban đêm thắp hương đi đắp bờ, đánh bầu bí, chuối, gốc tre đem trồng và làm chòi cử người lên ở canh giữ. Những ngày sau quan trên về kiểm tra xác nhận cho việc trồng trọt, ăn ở đã có từ trước đó, quan công nhận ruộng đất ấy thuộc làng Quảng Hạ. Vì vậy về địa lý, xóm Đông Tân cặp sát và liền ranh với làng Hải Nạp.

[2] Truyện kể: Khi nhà vua (chưa rõ đời nào) hành quân qua đây nghe danh có một cô gái có tài hát đối đáp. Vua dừng chân cho vời cô gái hỏi chuyện và hứa hẹn sau khi thắng giặc trở về cho rước cô về cung. Trong cung nhiều phi tần, mỹ nữ nên cô chưa một lần được vua ân ái. Xế tuổi, cô xin vua cho về quê. Vua phê chuẩn, ban danh Trinh Nữ và cho nhận một điều ước muốn. Cô xin cho đứng trên đỉnh núi Tè thả dải nón, gió bay đến đâu là đất của làng đến đó. Vùng đất được vua ban cho cô sau này được gọi là làng Trinh Nữ.

[3] Làng Thượng Phường xa xưa có nghề nuôi vịt. Khi quan trên cho vẽ bản đồ phân ranh địa giới ruộng đất giữa các làng, họ thắng kiện Quảng Hạ bởi chứng minh được với quan trên vịt của họ chăn thả ngoài đồng trước khi Quảng Hạ đem mạ đến cấy. Quan trên xem xét rồi quyết định từ đâu có lông vịt là đất của Thượng Phường. Vậy nên ruộng đất làng Thượng Phường ăn vào sát xóm Đầm và xóm Tè làng Quảng Hạ.

[4] Khi xã Yên Thắng chưa giao 400 ha đất cho Hợp tác xã Mùa Thu thì phía đồi rừng này cùng với Quèn Thờ thuộc đất của dân Trà Tu canh tác tiếp giáp với rừng núi của huyện Hà Trung, nay là thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 

[5] Từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, do đất Bình Hào bị bỏ hoang nhiều, nông dân Quảng Hạ nhận mượn đất canh tác và nộp tô cho Bình Hào. Đến Cải cách ruộng đất 1956 thì một vùng rộng lớn đất rừng Bình Hào và đồng Bát giao về cho Quảng Hạ canh tác.

[6] Hồ trên, nguyên là đầm của làng Đầm Khánh. Sau khi xã Yên Thắng đắp đập Đồi Chuông thì hồ này được gọi là hồ Yên Thắng.

[7] Năm 1407 Trần Ngỗi (Trần Giản Định) đã lên ngôi vua tại đây, tập hợp quân dân chống lại giặc Minh xâm lược. Năm 1788 - 1789 trước khi xuất chinh đánh quân Thanh, vua Quang Trung đã hội quân, làm lễ ăn thề tại vùng này. Có nhiều địa danh còn ghi lại dấu tích sự kiện thời ấy như: Đồi Ông Vua, núi Cấm, núi Voi, núi Mắc, núi Vàng, chợ Mo, Quán Cháo v.v... Thực dân Pháp cũng xây dựng ở vùng này nhiều đồn bốt chiến lược, kho tàng cất giấu vũ khí, xăng dầu và cả sân bay quân sự. Năm 1952, Ních xơn lúc ấy là Phó Tổng thống Mỹ đã đến khảo sát đồi Chợ Gềnh, mở đầu âm mưu mới của Mỹ ở Việt Nam.

[8] Bên núi quay về phía làng Trinh Nữ cũng có hang lớn; vào năm 1952, trong đợt càn quét, du kích và dân chạy vào hang lánh nạn, địch dỡ nhà dân, chất rơm rạ đốt ngoài cửa hang, chúng bỏ thuốc lào, quạt gío vào hang làm chết 42 người.

[9] Liệt sĩ: Phạm Văn Thi, Trần Văn Nhỏ, Bùi Khắc Xơng (trong chống Pháp); Phạm Văn Ngoạn, Phạm Văn Bính, Phạm Văn Phương, Bùi Khắc Mưu, Phạm Ngọc Hưng, Phạm Ngọc Tự, Bùi Khắc Quờn, Phạm Văn Bảo, Phạm Đình Hướng, Phạm Văn Kỷ (trong chống Mỹ và BVTQ).

[10] Trong kháng chiến chống Pháp, Đội du kích Quảng Hạ có 34 người. Chi bộ Quảng Hạ được thành lập năm 1948 do đồng chí Phạm Gia Lộc làm Bí thư, đồng chí Phạm Văn Sự làm Phó bí thư.

[11] Thời Pháp thuộc làng Bình Hào thuộc tổng Bạch Liên, nay Bình Hào thuộc xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Nói về Bình Hào người ta thường dẫn câu thơ: “Bảy làng Bồ, ba làng Bát, không bằng đám hát Bình Hào”, tuy so sánh có cường điệu nhưng muốn nói lên một làng Bình Hào dân cư đông đúc. Vào năm cuối thế kỷ XIX (1890) một bệnh dịch cấp xảy ra làm cả làng bị chết, chỉ còn mươi đinh sống sót. Cho đến nay, sau hơn 1 thế kỷ, làng Bình Hào cũng chỉ phục hồi có vài ba chục hộ dân.

[12] Thôn Cầu Mễ trước đây thuộc làng Bình Hào, còn gọi là Bình Hào Ngoài. Vị Hồng y thứ 3 người Việt - Phạm Đình Tụng quê thôn Cầu Mễ.

[13] Làng Bát có nghề làm gốm xứ từ xa xưa. Ông tổ làng gốm Bát Tràng, Hà Nội ngày nay có tên là Nguyễn Ninh Tràng, quê quán ở làng Bát, Yên Mô, Ninh Bình. Năm 1010, khi Nhà Lý dời đô, ông được đưa từ Hoa Lư ra, giao nhiệm vụ tìm nơi đất tốt làm gạch xây dựng kinh thành Thăng Long. Bãi đất ven sông Hồng được ông chọn làm gạch đã hình thành làng gốm Bát Tràng. Bát Tràng là tên của làng Bát ghép với tên ông.


Một số dòng họ Phạm ở Thái Bình- update 2013

03:31  HỌ PHẠM  NO COMMENTS

1690. Họ Phạm x. An Vũ, h. Quỳnh Phụ.

Từ đường tại th. Đại Điền, tọa lạc trên khuôn viên rộng 3 - 4.000 m 2 , nay con cháu vào ở, chỉ còn 283 m 2 . Bố cục chữ "Khẩu". Bái đường 5 gian. Đồ thờ tự đủ nhang án, sập thờ, long đình, bát bửu và một bộ khám rất đẹp. Bảo vật quý nhất là tấm biển ân phong của vua Tự Đức cho tổ mẫu (vợ cụ Phạm Văn Sản, tức Hiệp Sản) có công "Lạc quyên nghĩa phụ", đóng góp nhiều tiền của ủng hộ quốc gia lo việc bình ổn thiên hạ, chống giặc ngoại bang.

Từ đường này là nơi gặp gỡ của con cháu cụ Hiệp Sản gồm các cựu Chánh tổng, Lý trưởng và đương kim lý dịch ... cùng với thông gia là Ngự sử Phạm Huy Quang lo việc Cần vương chống Pháp. Tại đây, Đề đốc Tạ Hiện cũng đã cùng với nghĩa sĩ  h. Đông Quan bàn việc chống Pháp. Được xếp hạng DTLS cấp tỉnh (2004).

1691. Họ Phạm th. Cao Mỗ, x. Chương Dương, h. Đông Hưng.

Nguồn gốc từ Sơn Tây về, tính từ khi có người thành đạt đến nay khoảng hơn 200 năm, truyền 12 đời. Vào đời Lê Hiển Tông (1740-1786) có cử nhân Phạm Huy Đĩnh làm quan, được thăng tới chức Tể tướng, tước quận công.

1692. Họ Phạm l. Đoan Túc, nay thuộc ph. Tiền Phong, tp. Thái Bình.

Có lịch sử gần 500 năm, đến nay có 3 chi với 200 hộ. Tổ là Phạm Phó Cường sinh năm Nhâm Tuất (1562), từ Thanh Hóa về. Lịch sử kháng chiến chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Thái Bình còn ghi nhận tấm gương bất khuất, trung kiên của Phạm Hữu Bí (đời thứ 8) và 3 người em ông.

1693. Họ Phạm th. Đông Linh, ttr.  An Bài và th. Dục Linh, x. An Ninh.

Tổ tiên là người Gia Lâm,  Kinh Bắc đi buôn bán, rồi đến ở đây từ thời Lý. Do có công dạy chữ, dạy nghề và lễ giáo cho dân nên dân làng tôn là một trong tám tiên công mở đất gồm: Phạm, Nguỵ, Đàm, Hà, Nguyễn, Vũ, Bùi, Đỗ. Thời Hồ và thuộc Minh có Phạm Nhữ Dực - một nhà thơ nổi tiếng. Thời nhà Minh đô hộ có Phạm Bôi đã khởi nghĩa chống giặc ngay tại quê nhà, sau vào Lam Sơn tụ nghĩa, có mặt trong hội thề Lũng Nhai (1416), được phong Thái úy, cuối đời về trí sĩ và mất tại quê nhà với tước Thái bảo, được dân l. Đông Linh thờ làm Thành hoàng. Thời Lê có TS Phạm Như Trinh quê l. Mai Xá có tài văn chương, dân trong vùng còn nhớ câu: "Văn chương Mai Xá, đục đá Quốc Oai".

1694. Họ Phạm l. Nam Huân, nay thuộc x. Đình Phùng và l. Cao Bạt, x. Nam Cao.

Từ Bất Bạt, Sơn Tây (nay là Hà Nội) về mở đất từ 1524, đến nay được gần 500 năm, truyền 20 đời. Triệu tổ Phạm Trung Tín, Phạm Thu Trung từng phò vua Lê Thế Tông chinh chiến ở Cao bằng. Con dâu Nguyễn Thị Thông là tổ nghề gai vó.  Phạm Huy Hãn quyên tiền giúp vua Cảnh Hưng, chức Huyện thừa; Phạm Quang Độ cứu Gia Long.  Nhiều đời có công đánh cướp, được triều đình truy nhận công lao. Trong  lịch sử  hiện đại có Phạm Quang Lịch, Phạm Bái làm Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình; Phạm Thuần làm Chủ tịch t. Phú Thọ, 1 trung tướng, 1thiếu tướng.

Tại th. Nam Huân, x. Đình Phùng, h. Kiến Xương. Trước 1945, nhà chính 5 gian, dựng kiểu lòng thuyền tứ trụ, chồng đấu hoa sen, đóng cánh cửa khay; bị phá dỡ trong KCCP. Năm 1984, Bảo tàng t. Thái Bình đã mời các vị cao tuổi trong họ cùng các đồng chí lão thành cách mạng từng hoạt động tại đây tọa đàm về cảnh quan, cấu trúc nhà cũ, sau đó dựa vào phần móng tường, chân tảng còn lại xây dựng nhà thờ mới, gồm 3 gian đều lắp kèo kẻ, cột xẻ vuông, bào trơn đóng bén, cánh cửa pa nô. Hiện vật quý nhất còn lại là cuốn gia phả họ Phạm chép tỉ mỉ về thân thế sự nghiệp, công đức các liệt tổ, liệt tông 18 đời.

 

Từ đường họ Phạm là cơ sở của chi bộ Đảng h. Kiến Xương và là nơi đặt nhà in tài liệu cách mạng của Xứ ủy Bắc Kỳ. Được xếp hạng DTLS cấp tỉnh (1997).

1695. Họ Phạm l. Phú Khê, nay thuộc x. Hồng Việt, h. Đông Hưng.

Từ mạn Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội) xuống định cư, đến nay là đời thứ 11. Người họ Phạm chiếm tới hơn 80% dân số (hơn 1000 người) của th. tứ. Hiện có hai ngành Phạm Quang, Phạm Văn. Mỗi ngành có nhiều chi, chưa xác định được mối quan hệ. Ngày nay họ Phạm có 1 Phó giáo sư, Tiến sĩ; 4 thạc sĩ; 33 cử nhân; 142 người đã tham gia bộ đội (có 14 liệt sĩ), 11 sĩ quan cấp tá, 2 Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

1696. Họ Phạm l. Bác Trạch, nay thuộc x. Vân Trường, h. Tiền Hải.

Không rõ nguồn gốc, đến đây từ thời nhà Hồ. Vào đời Lê Thánh Tông (1460-1497) khi lập khoán ước giữa 3 làng Bác Trạch, Phương Trạch, Quân Bác đã xác định họ Phạm cùng họ Nguyễn, họ Lương là những tiên công mở đất ở vùng này. Vào đời Cảnh Hưng có thượng tướng quân chỉ huy quân cấm vệ là Quận công Phạm Đình Sĩ, con trai là Đô đốc kiêm Hiệp lý Bộ Binh - Lân Dương hầu Phạm Đình Thiện. Cả hai cha con đều được liệt vào hàng bề tôi tiết nghĩa của nhà Lê.

1697. Họ Phạm l. Phương Trạch, nay thuộc x. Phương Công, h. Tiền Hải.

Gia phả họ này đến nay chép được 21 đời, trải trên 600 năm. Cụ thủy tổ được ghi tên tự là Tất Hiếu, húy là Liên, Thụy là Trung Chính. Quê gốc ở Hà Nội, vì lánh nạn phải chuyển cư vào Thanh Hóa và tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Phạm Thị Trần làm thứ thất của Lê Lợi, sinh ra Lê Nguyên Long vào năm Thái Tổ khởi nghĩa thứ 6, Quý Mão (1423), sau nối ngôi vua là Thái Tông hoàng đế. Sau khi cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi, Phạm Văn Xảo được ban quốc tính, đứng ở hàng thứ ba trong bảng danh sách các khai quốc công thần, hàm Thái phó, tước Huyện Thượng hầu. Phạm Tri Vận là họ ngoại, được làm tri Tả hữu ban, phong liệt hầu (Tả hữu ban nắm kho tàng của nhà nước). Tri Vận vì có công làm con tin trong thành, được tặng phong Nguyên cữu Quan nội hầu. Sau khi Phạm Văn Xảo bị nghi oan và bị bức tử, con cháu họ Phạm phải mai danh ẩn tích, hậu duệ là hai chi họ Phạm l. Thư Điền và l. Phương Trạch. Đời thứ 5 có Phạm Viết Chu, chức Đội trưởng bảo vệ kinh thành, năm Nhâm Dần (1782) triều đình có việc phong vương, đã lập công giữ yên xã tắc; được thăng đến chức Phó Thiên hộ, hàm Tráng tiết tướng quân (chức quan cai quản quân Dũng Hãn, trật Tòng ngũ phẩm). Tại Từ đường còn 2 sắc phong năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783) và thứ 46 (1785):

Từ đường

Tại l. Phương Trạch, xây dựng từ nửa cuối tk. XVIII, trên diện tích đất hơn 400m 2 . Ngôi từ đường này còn giữ được nhiều di vật quý, đặc biệt là 29 cốt chủ:

Cốt chủ thứ nhất , đề: Hương tiền cố mẫu kiêm thập lý, sinh Nguyên Long, biểu trưởng văn thư Phạm công lưu tế, thứ tiền, nhị thiện, hiệu viết. Từ Mẫn hàng tam thần chủ. Sinh ư Bính Dần niên (1386), cửu nguyệt thập lục nhật, Bính Tý thời. Tốt ư  Nhâm Tuất niên (1442), nhị nguyệt, sơ tam nhật, Tỵ thời.

Cốt chủ thứ hai , đề: Hiển cao tổ khảo Phạm công, tự Tri Vận, Thụy Liêm Trực phủ quân thần vị.

Một số cốt chủ khác đề tên húy, tên hiệu và chức vụ cùng năm sinh, năm mất của một số nhân vật thời Lê. Từ đường họ Phạm l. Phương Trạch được xếp hạng DTLS cấp tỉnh.

1698. Họ Phạm th. Thọ Vực, x. Vũ Quý, h. Kiến Xương.

Căn cứ vào  sách Động Trung xã, Thọ Vực thôn - Phạn tộc gia phả biên lục do Chánh sở xứ xã quan Phạm Đình Mô biên soạn năm 1739, và Phạm tộc gia phả tục biên do Tú tài Phạm Vậng Chinh (1862-1922) biên soạn thì họ Phạm này gốc từ l. Nang (nay là x. Đình Phùng, h. Kiến Xương). Cháu nội Thượng thượng tổ Phạm Công Thủy là Phạm Thụ Trung định cư ở l. Động Trung đến nay là 17 đời. Là một trong những dòng họ góp phần mở mang, khai phá th. Thọ Vực (nay là th. 1, x. Vũ Quý). Như vậy, vị khởi tổ họ Phạm th. Thọ Vực, l. Động Trung là cụ Phạm Thụ Trung với tước Cao Bằng quận công.

1699. Họ Phạm  x. Thụy Phong, h. Thái Thụy.

Nhà thờ nguyên là nhà ở của Phạm Diệu, thân phụ Phạm Thế Hiển. Nhà 3 gian, tường xây hồi văn, hai gian hồi xây tường gạch, trổ cửa sổ. Gian giữa dựng bạo ngưỡng, đóng cánh cửa khung khách, nội thất dựng 4 vì kèo kẻ, bào trơn đóng bén, đúng là ngôi nhà bình thường của một sĩ phu nghèo trong thời tao loạn. Ban thờ chính tâm đặt 3 khám bài vị  nhỏ ghi duệ hiệu: cố Lê triều Hiệu sinh Phạm Diệu, TS. Phạm Thế Hiển, Phó bảng Phạm Thế Húc. Kỷ niệm còn lại có cuốn Niên trình, ghi lại chức vụ, công việc từ khi Phạm Thế Hiển đậu Tiến sĩ, ra nhậm chức ở các tỉnh, công vụ hàng năm đến ngày thất thủ Đại đồn Chí Hòa, và một tấm biển vua ban, ghi 2 chữ "Tiến sĩ". Được xếp hạng DTLS cấp Quốc gia (1989).

1700. Họ Phạm  l. Thư Điền, nay thuộc x. Tây Giang, Tiền Hải.

Từ đường tại th. Nam, xây dựng từ nửa cuối tk. XVIII với 3 gian nhà gỗ lợp tranh lá, năm Kỷ Tỵ bị bão đổ, sau được xây 3 gian lợp ngói trên mảnh đất dòng đích trưởng, khuôn viên rộng 536 m 2 . Năm 1995, thay vì kèo gỗ bằng bê tông cốt thép. Về cốt cách chung không thay đổi, nhưng trên hiên thượng đắp thêm bảng văn lớn đề 4 chữ Hán: "Phạm tộc Thư Điền" và đôi rồng chầu mặt trời.

Thư Điền là cơ sở cách mạng rất sớm của Hội VNCMTN và Đảng CSĐD. Những năm 1939-1945, từ đường họ Phạm là địa điểm hội họp bí mật của chi bộ Đảng và các đoàn thể Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc… Cơ sở cách mạng của các đồng chí Tô Xuân An (Tiểu đội trưởng tiểu đội Vệ quốc đoàn h. Tiền Hải), Tô Bá Huân (nguyên Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn bộ đội chủ lực tỉnh), Hà Trọng Hỷ (nguyên Đại tá binh chủng Hải quân) và cơ sở hoạt động của đồng chí Nguyễn Ngọc Trìu, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ. Được xếp hạng DTLS cấp tỉnh (2003).

1701. Họ Phạm l. Tìm, nay là th. Thái Hòa, x. Đông Hoàng, h. Đông Hưng.

Tổ là Phạm công, tự Phúc Giáo, quê gốc x. Đô Bái, h. Nga Sơn, p. Hà Trung, Thanh Hóa. Từ thời Tiền Lê (980-1009), Phạm Phúc Giáo ra trấn thủ ở Bố Hải Khẩu với chức Đô thống. Khi về nghỉ, sinh cơ lập ấp tại l. Tìm, đã đem nghề thuốc gia truyền chữa bệnh cho dân làng. Ngày nay họ Phạm vẫn sinh sống tại x. Đông Hoàng. Theo tộc phả thì họ Phạm ở th. Thái Hòa và họ Phạm ph. Kỳ Bá, tp. Thái Bình có quan hệ huyết thống với nhau.

1702. Họ Phạm l. Vị Dương, nay thuộc x. Thái Hồng, h. Thái Thụy.

Quê gốc x. Bồng Lai, h. An Khang (Thanh Hóa) chuyển cư về đây từ thế kỷ XV. Thủy tổ là 4 anh em Phạm Phúc Tinh, Phạm Phúc Tính, Phạm Phúc Thiện, Phạm Phúc Vi. Theo gia phả thì cả 4 người đều tham gia đánh giặc, không rõ ngày hy sinh, sau lấy ngày 6 - 2 là  ngày ra đi để cúng giỗ và lập "mộ" để tưởng niệm. Đời thứ 3, đời thứ 6 có người được phong tước hầu. Đời 15 có Pháp Hiều, đời 16 có Pháp Chức giỏi chữ nho. Đến nay đã truyền đến đời thứ 20. Họ Phạm Văn có 39 liệt sĩ, 14 sĩ quan cấp tá, 1 Tiến sĩ, 19 cử nhân, 13 giáo viên.

1703. Họ Phạm x. Vũ Quý, h. Kiến Xương.

Gốc từ họ Mạc ở Biện Sơn, t. Thanh Hóa chuyển

cư về th. Hanh Cù, x. Vũ Quý đến nay đã 200 năm. Thoạt đầu, cụ thủy tổ phải lánh nạn về xóm Đồng Nàn, th. Hậu Mễ (nay là th. 6, x. Vũ Trung). Trong hai năm 1865 đến 1867, chi họ Mạc ở Đồng Nàn đã lập thành một họ giáo. Để bảo vệ đồng bào theo Kitô giáo, cụ Nguyễn Mậu Kiến chuyển toàn bộ họ giáo này về Bến Rạc (Đồng Rạc), th. Hanh Cù và đổi ra họ Phạm. Chữ Phạm còn hàm nghĩa là phạm nhân, đề phòng triều đình Tự Đức (1848-1883) có sát hại công giáo thì Nguyễn Mậu Kiến có lý do để nói là nơi giam giữ các phạm nhân. Chi họ Mạc ở làng Động Trung là một chi họ chịu nhiều bước thăng trầm, cực khổ do chính sách sát tả và sự kỳ thị của triều đình phong kiến gây ra.

1704. Họ Phạm Công th. Hoành Từ, x. Đông Cường, h. Đông Hưng.

Có lịch sử gần 300 năm. Cụ tổ là Phạm Công Lộc quê gốc ở Hoành Mỹ, từ Thanh Hóa ra Thăng Long, rồi từ Thăng Long về mở đất lập l. Hoành Từ. Họ Phạm Công hiện có 300 hộ với hơn 1000 khẩu sống ở làng. Thời Nho học, họ Phạm Hoành Từ có 36 người theo học, là khóa sinh, tú tài hoặc nhất nhị trường. Nay có 83 Cử nhân, 6 Tiến sĩ, 18 cao đẳng.

1705. Họ Phạm Đình  x. Vân Trường, h. Tiền Hải.

Từ đường tại th. Bác Trạch, cũng là nhà ở của Phạm Quận công và con trai là ý Thọ hầu, Lâm Dương hầu. Tuy là nhà thờ họ nhưng to hơn đình làng các xã bậc trung. Gồm 2 tòa, bố cục chữ "đinh". Tòa tiền đường 5 gian. Bên trong 2 gian hồi bầy 2 tượng Kim Cương đá, 2 tượng ngựa đá. Gian trung tâm đặt án thờ, bầy chấp kích, bát bửu. Thẳng 2 vì cột thứ 2 và thứ 5 đặt 2 tấm bia đá lớn. Một bia khắc nguyên văn chiếu văn vua Cảnh Hưng ban khen quận công Phạm Đình Sĩ và khắc ghi công đức tiên liệt và quá trình tạo dựng tu bổ từ đường họ Phạm. Tòa hậu cung 1 gian, trên kê một phiến đá rộng khoảng 4 mét vuông, đặt tượng quận công Phạm Đình Sĩ.

Từ đường khởi thờ từ vinh công khởi nghiệp  Đề đốc tứ vệ Thần Vũ, Phụ quốc Thượng tướng quân, Tuyên lực công thần, Viêm quận công đến các công tử thành danh: Anh Liệt tướng quân, Đô chỉ huy sứ, Hiệp trấn, ý Thọ hầu Phạm Đình Y; Lê triều tiết nghĩa công thần Lân Dương  hầu; Phạm Trần Thiện và các thế hệ cao tổ, tằng tổ trong họ. Từ đường từng là nơi hội ngộ các tướng Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Viết Tuyển, Hoàng Viết Khang. Phan Bá Vành đã nương náu tại đây.

1706. Họ Phạm Đồng th. Phú Vinh, x. Đồng Phú, h. Đông Hưng.

Thủy tổ họ Phạm Đồng là Tiến sĩ Phạm Công Thế, vốn họ Nguyễn x. Phúc Khê (nay là  x. Thái Phúc, h. Thái Thụy), được ông ngoại là Tiến sĩ Phạm Công Huân (người l. Hoàng Xá, nay là th. Hoàng Xá, x. Đông Phương, h. Đông Hưng) nuôi dậy, khi đi thi lấy họ mẹ nên trong sử sách đều chép là Phạm Công Thế; làm quan đến chức  Hiệu thảo. Phẫn nộ trước việc chúa Trịnh Giang lấn át vua Lê, Phạm Công Thế cùng một số đại thần trong triều liên kết với Lê Duy Mật, Lê Duy Chúc, Lê Duy Chi âm mưu cuộc gây biến Kinh thành. Việc bị lộ, Phạm Công Thế bị chém. Cháu nội Phạm Công Thế là Phạm Cổ phải lẩn trốn đến th. Phú Cấm thuộc x. Cao Mỗ, tg Cao Mỗ, h. Thần Khê (từ cuối tk. XIX là th. Phú Vinh, nay là th. Phú Vinh, x. Đồng Phú, h. Đông Hưng), lập ra dòng họ Phạm Đồng. Cháu ruột Phạm Cổ là Phạm Chính Trực đã liên kết với Nguyễn Sơn (Ba Bá, Ba Bứa) mộ quân đánh chiếm p. Tiên Hưng, rồi kéo ra Yên Quảng hội quân với tướng Thiêm Liên đánh chiếm vùng Vân Đồn - Cát Bà, thanh thế rất lớn. Khi Tây Sơn ra Bắc, các ông theo Nguyễn Huệ.

Từ đường xây năm Mậu Tuất, đời Thành Thái (1898), kiểu hồi văn cánh bảng, cánh gà bổ trụ, đấu soi, đắp tảng thắt cổ bồng. Trong 3 gian thờ đặt 3 nhang án. Gian trung tâm đặt cỗ khám lớn chạm tứ quý (long hóa), 2 thanh chốt võng bằng ngà voi… Các ban thờ khác bầy đặt mâm triện, mâm bồng, ống hương, cây đèn, cây nến… giống như ban thờ tổ của các dòng họ. Được xếp hạng DTLS cấp tỉnh (2003).

Bốn cha con Phạm Trù (Từ điển Thái Bình) Thần thờ ở l. Lập Bái, Hưng Nhân

Thần thờ ở l. Lập Bái, tg Lập Bái, h. Hưng Nhân (nay thuộc x. Kim Trung,  h. H­ưng Hà). Sự tích : Phạm Trù (có sách ghi là Phạm Hạp), quê ở trang Yến Vĩ, động Hương Tích, h. Hoài An (sau đổi là ứng Hoà), p. Ngự Thiên, đạo Sơn Nam. Là ng­ười có chí lớn, hiềm vì vợ chết sớm, một mình gà trống nuôi ba con trai thơ dại (Tích Công, Thánh Công, Thành Công), lại bị sức ép của bọn trộm cướp ở địa phư­ơng - Phan Công Tề. Thấy Phạm là ng­ười trí dũng, bọn chúng buông lời dụ dỗ. Phạm quyết không theo, đành dắt díu đàn con đến trang Cổ Tiết (tên cũ của Cổ Bái) mở trường dạy học. Đinh Bộ Lĩnh trong buổi đầu dựng nghiệp phải thân chinh cùng với Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú đánh đ­ường tìm đến tận nơi đón bốn cha con họ Phạm. Phạm Trù cùng với Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú trở thành bộ tứ m­ưu thần (rồng thao hổ l­ược). Ba người con tài ba của Phạm Trù đều đư­ợc vua Đinh phong tặng cho làm Thư­ợng đẳng Phúc thần: Đệ nhất Tích Linh Đại Vương, Đệ nhị Thánh Đậu Đại Vương, Đệ tam Lê Hạnh Thành Đại Vương, Đư­ơng cảnh Thành hoàng Thánh bái Chân Giang Đại Vương.

Thái Bình tỉnh thần tích (AE.a5/22,117), (Q4 0 -18/VIII,15).


Các Ban Liên Lạc Online 


HỘI ĐỒNG HỌ PHẠM VIỆT NAM

Hà Nội: Số nhà 12, Ngách 105/1, Ngõ 105, đường Xuân La, quận Tây Hồ, Hà Nội, ĐT: 04.37533380, 0913510543; Email: phamvanduong7@gmail.com

Tp Hồ Chí Minh: Số 6 Phố Phan Bội Châu, P. Bến Thành, Quận.1, ĐT: 08. 38292178, Email: canphamvan@yahoo.com 

Trang web của BLL Họ Phạm Việt Nam chính thức bắt đầu hoạt động từ tháng 2/2005. Xem phiên bản cũ tại đây https://hophamvietnam.org/12244/   hophamvietnam.org Trụ sở:Tầng 2, số 258, phố Bà Triệu, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Điện thoại: 0913241718; 0916838154. Tổng biên tập trang web: Phạm Quang Nhuệ, ĐT: 0946.786.806; Email: nhuepham@gmail.com.  Trang web bắt đầu hoạt động từ Tháng 2 năm 2005.Chủ tịch nhóm (2023) TS Phạm Vũ Câu; Email: cauphamvu@gmail.com

http://hophamtphcm.org : Năm 1996 Ban liên lạc họ Phạm Hà Nội được thành lập tại đền thờ danh tướng Phạm Ngũ Lão ở Hà Nội. Hoạt động trên địa bàn Hà Nội.

Năm 2000 đổi tên thành Ban liên lạc họ Phạm Việt Nam hoạt động trên phạm vi toàn quốc: 

* Hiện nay đã có 11 BLL địa phương sau: 1. Hà Tây; 2. Hưng Yên; 3. Nam Định; 4. Thái Bình; 5. Quảng Nam-Đà Nẵng; 6. Quảng Ngãi; 7. Khánh Hòa; 8. Tp. Hồ Chí Minh; 9. Bắc Ninh-Bắc Giang; 10. Vĩnh Phúc, 11. Hải Phòng.

* Hiện có 10 Ban liên lạc theo dòng tộc hoặc các địa phương nhỏ: 1. Thanh Liệt (quê Phạm Tu); 2. Đông Ngạc (quê PTT Phạm Gia Khiêm); 3. Kính Chủ, Hải Dương; 4.Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội; 5. Bạch Sam, Mỹ Hào Hưng Yên; 5. Phạm Đình ở Khương Trung Hà Nội; 6. Phạm Văn Viết (quê gốc Sơn Tây); Linh Kiệt Nghệ An; 7. Mộ Đức, Quảng Ngãi; 8. Thị xã Uông Bí, Quảng Ninh; 9. Thị xã Phúc Yên, Vĩnh Phú; 10 Đông Anh, Hà Nội, … 


2011

Ở thành phố đã xuất hiện nhiều Ban liên lạc (BLL) hoặc Hội đồng gia tộc (HĐGT) của nhiều chi họ Phạm nhưng chưa liên kết được với nhau. Đầu năm 2003 BLL họ Phạm Thành phố cũng đã được thành lập do TS Phạm Khắc Kỷ quê gốc Long An làm trưởng ban. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên chưa có nhiều hoạt động quảng bá sâu rộng, nhiều bà con vẫn chưa biết ở thành phố đã có BLL họ Phạm. 

    Ngày 2-3-2008 tại số nhà 11 Nguyễn Đình Chiểu, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của PGS.TS. Phạm Đạo, Tổng thư ký Ban liên lạc Họ Phạm Việt Nam (nay là Trưởng Ban liên lạc) đã cùng với Ban liên lạc họ Phạm ở TP Hồ Chí Minh triệu tập một cuộc họp để củng cố, bổ sung thành viên mới vào BLL. Tại cuộc họp, ông Phạm Đức Thưởng được bầu làm Trưởng BLL mới cùng với với 18 vị Ủy viên. Ngày 11/01/2009, tại cuộc họp kiểm điểm công tác năm 2008 và bàn Kế hoạch công tác năm 2009 của BLL đã đánh giá cao việc BLL đã tổ chức thành công cuộc Họp mặt họ Phạm tại Tp HCM và các tỉnh lân cận lần thứ nhất. Tại cuộc họp đó Trưởng BLL ông Phạm Đức Thưởng xin rút vì tuổi cao sức yếu. Hội nghị đã tiến cử Bs. Phạm Văn Căn lên thay ông Phạm Đức Thưởng làm Trưởng ban mới của BLL họ Phạm Tp. Hồ Chí Minh

NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM HỌ PHẠM NỔI TIẾNG


Lịch sử

[

Chính trị - Quân sự


Lĩnh vực khác