Thảm sát Gạc Ma Trường Sa 1988 

Khu tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma được xây dựng trên khu đất rộng hơn 25.000m2, ở phía Đông Đại lộ Nguyễn Tất Thành, tại xã Cam Hải Đông, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa. Được khởi công xây dựng từ tháng 3/2015 và hoàn thành vào 7/2017, với vốn đầu tư hơn 130 tỷ đồng từ nguồn đóng góp của đoàn viên công đoàn và người lao động trong cả nước. Khu tưởng niệm gồm 05 khu vực: Quảng trường lối vào; Tượng đài chiến sĩ Gạc ma; Khu trung bày ngầm; Mộ gió và Quảng trường Hòa bình; Con đường hoài niệm

Nhưng suốt 47 năm qua, để giữ Trường Sa vững vàng trước sóng gió, "những người nằm lại phía chân trời" chỉ tính từ 1975 tới năm 2010, đã có 166 liệt sĩ hy sinh tại Trường Sa. 36 liệt sĩ 14-4-1975 trận đánh trên đảo Song Tử Tây + 64 liệt sĩ Gạc Ma 1988.


 Tấm bia đá đặt tại Nhà truyền thống huyện đảo Trường Sa. 

Danh sách 166 liệt sĩ hy sinh ở Trường Sa từ 1975 đến 2010 khắc kín trên mặt hai tấm bia đá ở Nhà truyền thống huyện đảo Trường Sa. Người cuối cùng trên tấm bia mang số thứ tự 166 là liệt sĩ Lê Văn Tuấn - chuẩn úy, nhân viên máy nổ của đảo Trường Sa - hy sinh ngày 26-10-2010 khi mới 22 tuổi. Khi Lê Văn Tuấn chào đời, năm 1988 là năm xảy ra trận chiến bảo vệ Gạc Ma với 64 liệt sĩ hy sinh; khắc lên như dấu mốc của sự hy sinh tiếp nối để bảo vệ chủ quyền Tổ quốc giữa trùng dương… 

Gạc Ma

Gió tháng ba còn hơi lạnh

Anh nằm đó, không hiu quạnh bạn bè

Các anh đi khi tươi trẻ

Mờ khói sương, trong mạnh mẽ can trường

Ánh mặt trời, tỏa thái dương

Gạc Ma, trung dũng tấm gương anh hùng.

Phạm Phát- 2022

---HẢI CHIẾN TRƯỜNG SA 14/3/1988 

Trong hai tháng đầu năm 1988 Trung Quốc bất ngờ đổ quân chiếm đóng trái phép các bãi đá trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Trong đó có những bãi đá xen kẽ rất gần những đảo do Hải Quân nhân dân Việt Nam đã kiểm soát. 

Sau khi chiếm giữ trái phép các đảo Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, Ga Ven, quân Trung Quốc tiếp tục chuẩn bị thực hiện ý đồ thôn tính 3 đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao.

Nhằm ngăn chặn việc chiếm đóng trái phép tiếp diễn, quân chủng Hải Quân đã gấp rút vận chuyển vật liệu khí tài để đóng giữ 6 bãi đá khác. Và cho tới đầu tháng 3 năm 1988 đã bắt đầu ngăn chặn tích cực mở rộng phạm vi chiếm đóng trái phép của đối phương. Nhận thấy các đảo trong cụm đảo Sinh Tồn là con đường trọn yếu vận chuyển hàng của quần đảo Trường Sa. Quân chủng HQ đã nhanh chóng điều động các tàu vận tải mạng khí tài cùng vật liệu trong chiến dịch mang tên CQ-88 để nắm giữ các bãi đá này không để chúng rơi vào tay địch Chiều ngày 13-3-1988 các hàu HQ-604, HQ-605, HQ-505 đã bắt đầu tiếp cận các bãi đã Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao…

Các lực lượng hải quân công binh chuyển vật liệu xuống đảo, cắm cờ chủ quyền phòng thủ, giữ vững chủ quyền các đảo. Chiều ngày hôm đó các tàu Trung Quốc tiếp cận và áp sát gọi loa khiêu khích các chiến sĩ của ta vừa đóng giữ trên bãi Gạc Ma, Cô Lin… Quân chủng hải quân nhận định TQ âm mưu khiêu khích vũ trang nhằm ý đồ leo thang xung đột tạo cớ làm bùng phát chiến tranh tổng lực đánh chiếm các đảo do HQ VN kiểm soát. 

Tuân thủ tuyệt đối mệnh lệnh của cấp trên thuyền trưởng Vũ Phi Trừ chỉ huy tàu HQ 604 cùng anh em trên các bãi đá Gạc Ma, Cô Lin vẫn động viên nhau giữ bình tĩnh tránh mọi sự khiêu khích của đối phương, Trung Quốc tiếp tục huy động thêm nhiều tàu khác nhằm khiêu khích các chiến sĩ đang chốt đảo. Chiều 13 sáng 14-3-1988 các chiến sĩ chốt trên các bãi đá nhẫn nhịn, tránh tất cả các sự khiêu khích từ đối phương….Căng thẳng kéo dài từ chiều ngày 13/3/1988 cho đến rạng sáng ngày 14/3/1988 nhưng các chiến sỹ HQNDVN vẫn kiên nhẫn nín nhịn tránh mọi sự khiêu khích của kẻ thù 6h sáng 14/3/1988 TQ thả hàng chục thuyền nhôm và lính có vũ trang xông thẳng về phía bãi đá Gạc Ma để hạ cờ VN và dùng vũ lực uy hiếp hòng buộc quân ta phải rút khỏi đảo. 

Trong trận chiến giữ cờ tại bãi đá Gạc Ma thiếu úy Trần Văn Phương đã anh dũng hi sinh khi tay không giữ vững lá ờ Tổ Quốc, trước khi hi sinh anh đã hô to "Thà hy sinh chứ không để mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của quân chủng hải quân". Không uy hiếp được HQ và công binh Việt Nam rút khỏi bãi đá Gạc Ma quân đổ bộ phải rút khỏi tàu chiến của chúng và rồi. Hàng loạt đại liên từ tàu chiến TQ đã thảm sát toàn bộ các chiến sỹ HQ công binh đang chốt giữ trên bãi đá Gạc Ma khi đó là 7h30p sáng ngày 14/3/1988, không dừng lại ở đó chúng còn bắn chìm tàu vận tải HQ-604 cho đến khi toàn bộ thủy thủ và thuyền trưởng Vũ Phi Trừ hi sinh theo tàu HQ604, tàu vận tải HQ505 chốt giữ bãi Cô Lin, HQ 605 chốt giữ bãi Len Đao phải hứng chịu làn đạn dày đặc từ tàu chiến của đối phương. HQ505 kịp ủi bãi Cô Lin và hư hỏng nặng, HQ505 chìm hẳn vaò sáng 15/3/1988.

.......... Hãy ghi nhớ mối thù nợ máu này. Ngày nay quần đảo Trường Sa vẫn còn nhắc cho nhau nghe những chiến công của cha anh và tự nhủ rằng vững chắc tay súng bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ Quốc Việt Nam

"Những người nằm lại phía chân trời" - tên đồ án quần thể tưởng niệm những người lính Việt hy sinh trên vùng biển Gạc Ma ngày 14-3-1988, xây dựng tại Cam Lâm (Khánh Hòa).

https://tuoitre.vn/truong-sa-gac-ma-va-nhung-nguoi-nam-lai-20220312210108765.htm 

Với khoảng cách chưa đầy hai hải lý, từ đài quan sát đảo Cô Lin, nhìn qua ống kính viễn vọng hướng về phía đảo Gạc Ma, hòn đảo của đất Việt, một phần máu thịt hình hài đất nước đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép. 

Đảo đá Gạc Ma: Johnson South Reef is a reef in the southwest portion of the Union Banks in the Spratly Islands of the South China Sea.

https://tuoitre.vn/vong-tron-bat-tu-tren-bai-gac-ma-537171.htm 

Vùng biển Cô Lin - Gạc Ma - Len Đao và vị trí các tàu hải quân VN, trước khi xảy ra cuộc tấn công xâm chiếm Gạc Ma của quân TQ

Vòng tròn bất tử

các tàu HQ-505, HQ- 604, HQ-605 của Lữ đoàn 125 phối hợp với Lữ đoàn 146 và công binh E83 được lệnh hành quân khẩn cấp về nhóm đảo chìm Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao trước sự lăm le chiếm đóng bất hợp pháp của hải quân Trung Quốc (TQ). Người chiến sĩ hải quân trẻ Nguyễn Văn Lanh lúc ấy có mặt trên chiếc tàu HQ-604 do đại úy Vũ Phi Trừ làm thuyền trưởng cùng với lữ đoàn phó 146 Trần Đức Thông.

anh Nguyễn Văn Lanh nhớ lại: chiều tối 13 thì tàu HQ-604 đến vùng biển Gạc Ma (còn tàu HQ-505 có mặt ở Cô Lin, tàu HQ-605 thẳng tiến Len Đao). Khi tàu HQ-604 thả neo, nhiều chiến sĩ công binh trẻ măng vẫn còn say sóng, chưa kịp ăn thứ gì thì lữ đoàn phó Trần Đức Thông và thuyền trưởng Vũ Phi Trừ đã kêu gọi anh em bắt tay khẩn cấp vào nhiệm vụ giữ đảo.

Đêm 13-3, gió mùa đông bắc thổi mạnh, mây mù che kín bầu trời làm mặt biển tối đen như mực. Anh Lanh cùng các đồng đội hạ xuồng vận chuyển vật liệu xây dựng lên đảo chìm Gạc Ma. Còn việc bảo vệ lá cờ đỏ sao vàng, khẳng định chủ quyền VN do tổ của thiếu úy Trần Văn Phương đảm nhiệm. Họ phải dùng xà beng đục xuống rạn san hô Gạc Ma để cắm vững thân cờ Tổ quốc. Trên đảo Cô Lin cách đó không xa, cờ chủ quyền cũng phần phật tung bay ở cả hai đầu đảo. Trung tá Trần Đức Thông yêu cầu cán bộ, chiến sĩ cứ tập trung nhiệm vụ, mặc kệ tàu chiến TQ đang lảng vảng quanh đó.

Rạng sáng hôm sau, tức ngày 14-3-1988, khi mọi người chưa kịp dùng bữa sáng thì các tàu chiến TQ áp sát. Đó là các biên đội tàu chiến thật sự với hỏa lực mạnh, trong khi các tàu VN chỉ là loại hải vận để chở binh sĩ, vật liệu xây dựng, lương thực tiếp tế cho các đảo chứ không phải tàu chiến. Đặc biệt, đa số chiến sĩ trên tàu VN là công binh làm nhiệm vụ xây dựng đảo chứ không phải lính chiến đấu. Trước tình hình không cân sức này, các thuyền trưởng Vũ Huy Lễ, Vũ Phi Trừ, Lê Lệnh Sơn và lữ đoàn phó Trần Đức Thông truyền đạt mệnh lệnh: kiên cường giữ vững nhiệm vụ, tất cả sẵn sàng chiến đấu để giữ vững chủ quyền.

Tình hình càng lúc càng diễn biến căng thẳng hơn. Tại bãi Gạc Ma, thủy triều buổi sáng đã dâng cao hơn, nhưng nhóm bảo vệ ngọn cờ chủ quyền của thiếu úy Trần Văn Phương vẫn kiên cường trụ vững trên bãi san hô.

Rồi chuyện gì đến đã đến: quân TQ đổ bộ xâm chiếm đảo...


Gần 6 giờ sáng, tàu chiến TQ bắt đầu cho xuồng nhỏ áp sát rạn san hô Gạc Ma. Một lát sau, các xuồng khác lại tiếp tục được thả xuống với lính hải chiến TQ nai nịt đầy đủ vũ khí để đổ bộ.

Vòng tròn bất tử

Trước tình thế đó, trên bãi san hô Gạc Ma, các chiến sĩ VN đã quây thành vòng tròn bảo vệ ngọn cờ Tổ quốc (mà sau này nhiều người vẫn gọi vòng tròn ấy bằng cụm từ thiêng liêng: vòng tròn bất tử). Nhưng lúc ấy, ngoài nhóm nhỏ lính hải quân chiến đấu thuộc Lữ đoàn 146 của thiếu úy Phương, đa số là công binh chỉ có cuốc, xẻng, xà beng trong tay. Lúc này anh Lanh vừa mới quay lại tàu lấy thêm vật liệu xây dựng để đưa xuống đảo thì trung tá Trần Đức Thông kêu gọi tất cả mọi người còn trên tàu HQ-604 biết bơi hãy nhảy hết xuống biển, tiếp ứng cho anh em trên bãi san hô. Anh Lanh ra mạn boong hướng về đảo, nhảy xuống biển cùng nhiều chiến sĩ khác, nhanh chóng bơi vào vùng đồng đội sắp bị tấn công.

Trước mắt anh Lanh, cuộc đụng độ không cân sức bắt đầu bùng nổ. Lính TQ đổ bộ dày đặc lên đảo với AK sáng quắc lưỡi lê cố tràn vào vòng tròn chiến sĩ VN. Lính TQ cố giật và hạ cờ VN. Còn chiến sĩ VN trên tay chủ yếu chỉ có xà beng, cuốc xẻng, vật liệu xây dựng vẫn quyết tử giữ bằng được lá cờ. Mấy lần lính TQ cố tràn vào đều bị bật ra. Đến khi chúng nhả đạn mới áp sát được vào chỗ thiếu úy Phương đang giữ chặt ngọn cờ. Anh Lanh lúc này cũng đã lao vào sát cánh cùng đồng đội Phương. Hai bên giành giật ngọn cờ. Bất ngờ lính TQ nổ súng thẳng vào đầu thiếu úy Phương. Anh ngã xuống nhưng vẫn ôm chặt lá cờ loang máu.

Trung sĩ Nguyễn Văn Lanh (sau được phong Anh hùng lực lượng vũ trang) kể tiếp: “Sau khi anh Phương bị bắn, lính TQ định cướp lá cờ nhưng tôi giằng lại được. Một tay tôi cầm cờ, một tay cầm xà beng đánh lại...”. Thấy khó hạ gục được người lính công binh VN kiên cường, lính TQ đã đâm anh từ phía sau rồi cuối cùng bắn thẳng vào anh bằng AK.

Trên toàn rạn san hô Gạc Ma, trận chiến lúc ấy đã bùng nổ dữ dội. Lính đổ bộ TQ lùi ra xa để đại liên, pháo 37 li từ tàu chiến của chúng bắn thẳng vào các chiến sĩ VN vẫn đang quyết tử bám trụ giữ đảo. Trên tàu HQ-604, trận chiến cũng diễn ra bi tráng. Anh Mai Văn Hải, công binh E83, có mặt trên tàu lúc đó, nhớ trước khi đổ bộ giáp trận trên đảo, các tàu chiến TQ đã lùi ra đề phòng các súng nhỏ như AK, B40, B41 của tàu VN. Sau đó, chúng mới lợi dụng ưu thế hỏa lực tầm xa mạnh như pháo 100 ly, 37 li bắn dồn dập vào tàu HQ-604.

Loạt đạn đầu tiên của tàu TQ bắn trúng phòng báo vụ tàu HQ-604. Trước mắt Hải, thuyền trưởng Vũ Phi Trừ lao xuống phòng động cơ, định cho máy tàu nổ để ủi lên bãi san hô Gạc Ma. Nhưng ngay lúc đó phòng máy bị trúng đạn bốc cháy, không còn thấy bóng anh ngược ra. Tàu cũng không còn khả năng lao lên bãi. Anh Hải ngược lên phòng điện trên mặt boong, gặp trung tá Trần Đức Thông và đại úy Phòng. Nhưng cũng đúng khoảnh khắc ấy, từng tràng đại liên từ phía TQ bắn thẳng vào. Lữ đoàn phó Trần Đức Thông trúng đạn vào đầu gục xuống. Đại úy Phòng cũng hi sinh.

Tàu HQ-604 mất dần dưới mặt biển, mang theo nhiều chiến sĩ và thuyền trưởng Vũ Phi Trừ, lữ đoàn phó Trần Đức Thông!

Tàu HQ 604 bị chìm tại Gạc Ma trong trận chiến bảo vệ đảo, trong ảnh là con tàu được chụp vào ngày 10-3-1988 khi xuất bến đi làm nhiệm vụ.  Bốn ngày sau, tàu bị bắn chìm tại vùng biển Gạc Ma - Ảnh tư liệu Lữ đoàn 125

Sau khi bắn cháy tàu HQ-604, tàu chiến Trung Quốc bắt đầu dồn dập nhả đạn vào tàu HQ-505. Bị trúng đạn pháo của đối phương, một phần tàu bốc cháy. Trong khoảnh khắc một mất một còn, thuyền trưởng Vũ Huy Lễ quyết định cho tàu HQ-505 lao thẳng lên rạn san hô Cô Lin. Tàu gối một nửa thân trước lên cạn, nửa sau nằm dưới nước. Con tàu biến thành công sự không thể chìm và những người lính quyết tử để bảo vệ ngọn cờ chủ quyền.


Tàu HQ605 chìm ở đảo Len Đao trong cuộc chiến ngày 14-4-1988. 

Các tàu chiến Trung Quốc sau khi bắn chìm tàu HQ-604 ở Gạc Ma liền kéo sang tấn công tàu HQ-605. Những loạt pháo hạng nặng 100 li dồn dập nhả vào con tàu vận tải không hề trang bị hỏa lực hải chiến. Tàu HQ-605 bốc cháy dữ dội. Thuyền trưởng Sơn ra lệnh cho mọi người rời tàu.


Khi đã im tiếng súng

Tàu hải vận HQ-605 làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ở đảo chìm Len Đao bị bắn cháy sau 8g sáng 14-3-1988. Mọi người phải rời tàu, nhảy xuống biển, nhưng vẫn dìu nhau trụ lại vùng biển Len Đao dưới làn mưa đạn pháo cho đến lúc chiến hạm Trung Quốc rời trận địa quay sang bãi Gạc Ma.


thuyền trưởng HQ-605 Lê Lệnh Sơn kể: “Nếu ở lại tàu thì tất cả sẽ hi sinh hết. Chủ quyền cũng chưa chắc giữ được. Tôi cho anh em nhảy xuống biển, vì tin rằng mỗi người lính lúc ấy sẽ trở thành nhân chứng, thành ngọn cờ bằng xương máu giữ chủ quyền Tổ quốc!”.

Kiên cường trụ lại Len Đao cho đến khi tàu chiến Trung Quốc rời đi, các chiến sĩ tàu HQ-605 mới bơi tập trung lại với nhau, hướng về đảo Sinh Tồn.

Trong lúc đó tình hình bãi Gạc Ma cũng rất căng thẳng. Mặc dù tàu chiến Trung Quốc ngừng nổ súng nhưng vẫn trơ lì ở lại vùng biển chủ quyền Việt Nam. Còn các chiến sĩ hải quân Việt Nam, người sống, người bị thương, người hi sinh đang nổi chìm dưới vùng nước loang máu.

Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ tàu HQ-505 rưng rưng kể: “Sau khi tàu lên được bãi Cô Lin, tôi lệnh cho nhóm chiến sĩ ở lại tàu sẵn sàng tiếp tục chiến đấu, còn một nhóm tìm cách cứu hộ đồng đội ở Gạc Ma sau khi tàu HQ-604 đã chìm. Công việc nhân đạo nhưng rất căng thẳng dưới họng súng đối phương”. Thuyền trưởng Lễ nhớ chi tiết khi thuyền cứu hộ nhỏ của tàu HQ-505 vào vùng biển Gạc Ma, tàu chiến Trung Quốc dọa bắn cả những người tay không đi làm nhiệm vụ cứu hộ, cứu thương. Nhưng họ vẫn quyết tâm tiến vào vì ở đó còn đồng đội mình.

Sau khi chuyển các liệt sĩ và thương binh lên đảo Sinh Tồn, thuyền trưởng Lễ liên lạc về sở chỉ huy trong đất liền. Ông báo rõ tình hình Cô Lin rằng: “Cờ Tổ quốc vẫn còn, tàu vẫn còn và người vẫn còn, quyết tâm xin được ở lại để bảo vệ tàu và bảo vệ chủ quyền đảo của đất nước. Nếu cần phải hi sinh vì Tổ quốc sẽ sẵn sàng hi sinh đến người cuối cùng”. Đề nghị này được cấp trên chấp thuận. Chiều tối 14, thuyền trưởng Lễ và một số cán bộ, chiến sĩ đi thuyền máy qua đảo Sinh Tồn, viếng các liệt sĩ và thăm hỏi thương binh, rồi quay trở lại ngay tàu 505 vẫn đang nằm cùng ngọn cờ trên đảo Cô Lin.

Một cuộc họp được khiển khai gấp rút ngay trong đêm. Thuyền trưởng Lễ xúc động nói với đồng đội rằng ông sẽ ở lại bảo vệ con tàu này và ngọn cờ chủ quyền trên đảo Cô Lin. Ông đề nghị chín người tình nguyện xung phong ở lại cùng với ông để lập thành tiểu đội chiến đấu bảo vệ tàu. Rất nhiều cánh tay giơ cao trong cuộc họp. Thuyền trưởng Lễ trân trọng tinh thần quyết tử cho Tổ quốc của đồng đội và chọn chín người ở lại tàu cùng mình. Trong đó có thuyền phó Nguyễn Huy Cường, Thạc, Biên, Thanh, Xuyên... đến từ các miền quê Nghệ An, Hà Tĩnh, Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng.

“Nhiều đêm tôi vẫn nằm mơ khoảnh khắc chia tay đầy xúc động này. Người về, người ở lại đều nghẹn ngào. Chiến sĩ trẻ khóc thành tiếng. Đại úy, chính trị viên Võ Tá Du gạt nước mắt dẫn nhóm anh em về và nhắn nhủ với những người ở lại: “Anh em ở lại quyết tâm bảo vệ tàu, bảo vệ đảo Tổ quốc. Chúng tôi hứa về đất liền sẽ kể lại toàn bộ cuộc hải chiến này và tinh thần quyết tử cho Tổ quốc của anh em...”.

Đến lúc xuồng máy đã hạ xuống để chuyển người lên tàu khác về đất liền, nhiều chiến sĩ vẫn xúc động không nỡ chia tay, cứ xin được ở lại cùng con tàu. Thuyền trưởng Lễ phải nén cảm xúc, kiên quyết tiễn anh em. Ông hiểu rất rõ điều gì đang chờ đợi đội mười người ở lại với tàu ở đảo Cô Lin trong thời điểm nóng bỏng trên vùng biển này. Cả con tàu lúc ấy chỉ còn là một lô cốt sắt nằm bất động trên bãi san hô. Mười người ở lại đều sôi sục tinh thần yêu nước và sẵn sàng quyết tử chiến đấu bảo vệ chủ quyền Tổ quốc.

Đội bảo vệ đảo Cô Lin do thuyền trưởng Lễ chỉ huy đã phân thành năm tổ sẵn sàng chiến đấu chống trả lại đối phương xâm lược đảo. Thuyền trưởng Lễ nhớ những đêm anh em không ngủ được, nằm bên nhau trên boong tàu. Ông tâm sự với chiến sĩ: “Mười anh em sống chết có nhau, phải giữ bằng được tàu, bằng được cờ và chủ quyền Tổ quốc”. Họ rưng rưng trả lời: “Chúng tôi quyết tâm bảo vệ tàu, bảo vệ đảo đến người cuối cùng. Có phải hi sinh thì sẽ cùng hi sinh với nhau!”.

Mộ của liệt sĩ trên đảo Sinh Tồn, PV TTXVN Đình Trân chụp năm 1988

3/1988 Nhóm chiến sĩ mặc độc quần đùi áo may ô đánh giáp lá cà với hàng loạt lính mang súng AK lưỡi lê

HẢI CHIẾN TRƯỜNG SA 1988 - KÌ 1: BẤT TỬ TRÊN ĐẢO GẠC MA

Trong ký ức của anh Lê Thanh Miễn và Lê Văn Dũng, thuộc nhóm chiến sĩ chiến đấu trên đảo Gạc Ma, trận chiến dường như mới xảy ra hôm qua. Tưởng như hai anh mới vừa chứng kiến cảnh đồng đội là Trần Văn Phương và Nguyễn Văn Lanh tay không giành giật lá cờ tổ quốc với lính hải quân Trung Quốc, được vũ trang tận răng.

Tàu HQ-604 do thuyền trưởng Vũ Phi Trừ chỉ huy được lệnh tiếp cận đảo Gạc Ma, khẩn trương chuyển vật liệu xây dựng lên đặt mốc chủ quyền ngay trong đêm 13. Sau khi đặt được mốc và cắm cờ tổ quốc, một nhóm chiến sĩ được giao nhiệm vụ canh gác trên đảo. Những người khác bốc vác vận chuyển vật liệu từ tàu vào đảo trên các xuồng nhỏ.

Thiếu úy Trần Văn Phương và chiến sĩ Nguyễn Văn Lanh có nhiệm vụ giữ cờ.

Sáng ngày 14, Trung Quốc đưa 5 xuồng nhôm cùng vài chục lính thủy, dương AK lưỡi lê quây vòng tròn tiến lên đảo.

Những chiến sĩ trên đảo lùi dần về phía lá cờ, tạo thành ‘vòng tròn bất tử’. Anh Lê Thanh Miễn có mặt trong nhóm chiến sĩ đó. Anh chứng kiến thiếu úy Trần Văn Phương trúng đạn đầu tiên và gục xuống. Lá cờ được chuyển sang cho anh Nguyễn Văn Lanh. Hai lính Trung Quốc áp sát anh Lanh giành giật. Cán cờ bị văng mất, anh Lanh cuốn lá cờ vào ngực và đạp vào bụng hắn. Lính Trung Quốc đâm bằng lưỡi lê, báng súng vào anh Lanh nhưng anh vẫn kiên quyết giữ cờ.

Anh Lê Văn Dũng lúc đó vừa chở được một xuồng vật liệu vào, đang định bơi ra tàu thì gặp lúc lính Trung Quốc tấn công phải lui trở lại. Trong thời điểm anh Phương và anh Lanh giành giật lá cờ với lính Trung Quốc, anh Dũng và anh Miễn cũng đang chiến đấu với những lính Trung Quốc khác, chỉ cách chỗ thiếu úy Phương hy sinh vài mét.

Trong trận chiến không cân sức, như anh Dũng nói, giữa nhóm chiến sĩ mặc độc quần đùi áo may ô đánh giáp lá cà với hàng loạt lính mang súng AK lưỡi lê, ‘như trẻ con chơi vật nhau’.

Sau trận giáp lá cà, quân Trung Quốc rút lui về tàu rồi dập pháo vào đảo Gạc Ma và tàu HQ-604, thảm sát gần như toàn bộ các chiến sĩ trên đảo và tàu.

Anh Lê Thanh Miễn rưng rưng kể về người đồng đội Võ Văn Tứ (quê Trường Sơn, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên). Anh Tứ bị mảnh pháo phạt đứt rời ngang đùi, mất chân phải. Máu ra nhiều. Sau khi pháo Trung Quốc ngừng, anh Miễn xé gấu quần đùi buộc ngang bắp chân anh Tứ rồi đưa anh nằm lên xuồng nhôm, cạnh xác thiếu úy Trần Văn Phương. Anh Phương bị lính Trung Quốc xả AK vào người và bị pháo phạt mất nửa mặt.

(Cần biết rằng Gạc Ma là một đảo chìm. Khi thủy triều xuồng nước đến đầu gối. Khi triều lên nước đến ngang bụng. Sau trận chiến, quân ta dùng những xuồng nhỏ để những người bị thương nặng nằm lên xuồng. Những người bị thương nhẹ và không bị thương cứ đứng dầm nước nhiều tiếng đồng hồ đến khi được cứu).

Trong lúc tàu HQ-604 và đảo Gạc Ma bị tấn công dữ dội thì bên đảo Len Đao và Cô Lin, tàu HQ-605 và HQ-505 cũng đồng thời bị bắn. Khi thấy tàu HQ-604 bị bắn chìm, thuyền trưởng tàu HQ-505 Vũ Huy Lễ cho tàu lùi ra lấy đà và ủi lên đảo Cô Lin. Khi tàu HQ-505 trườn lên được hai phần ba thân tàu lên đảo thì bốc cháy. Thủy thủ tàu vừa dập lửa vừa đưa xuồng đến cứu thủy thủ tàu HQ-604.

Anh Lê Văn Dũng. Hiện anh Dũng sống tại xã Tây Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Cũng như nhiều người dân trong vùng, anh Dũng sống bằng nghề trồng cây cao su. 

Anh Miễn bơi đẩy chiếc xuồng có anh Tứ và xác anh Phương ở trên về đến tàu HQ-505 (lúc này đã bị cháy và hư hại một phần). Nhưng thành tàu quá cao (chừng 5 – 6 mét) có cầu thang lên. Anh cõng anh Tứ đằng sau, nhưng anh Tứ đã mất máu quá nhiều, sức yếu không thể ôm anh Miễn để anh leo lên. Anh Tứ chỉ một mực kêu khát nước và xin anh Miễn để anh lại, cho anh uống nước để anh chết.

“Tội hắn lắm (tiếng địa phương Quảng Bình). Tôi cũng chẳng biết làm thế nào, đành để hắn lại trên xuồng rồi leo lên tàu HQ-505 lấy nước. Vậy mà hắn khỏe hung, cứ nằm vậy. Từ lúc bị thương khoảng 10h sáng, đến 4h hôm sau, khi được đưa về đảo Sinh Tồn thì ra đi”, anh Miễn nghèn nghẹn.

Anh Lê Thanh Miễn, hiện anh sống tại xã Tây Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình, Anh Miễn sống bằng nghề làm ruộng. 

Nhưng ngay khi hai tàu Việt Nam đã bị bắn chìm và cháy (tàu HQ-605 bị bắn bên phía đảo Len Đao, sáng hôm sau chìm). Người thương vong quá nhiều, phía Trung Quốc vẫn cho 3 tàu chiến ngáng chặn, không cho tàu Việt Nam và tàu Hội Chữ Thập Đỏ vào ứng cứu. Chiến sĩ hải quân Việt Nam, người gắng gượng bơi được vào bãi đá Cô Lin, người bị thương nằm trên xuồng, thậm chí trên lưng đồng đội. Người ôm những mảnh tàu vỡ lênh đênh trên mặt biển nhiều tiếng liền.

Chỉ đến đêm 14, sang ngày 15, tàu Việt Nam mới tiếp cận được đảo Gạc Ma để đưa các chiến sĩ về đảo Sinh Tồn cứu chữa. Nhiều người sang ngày 15 mới được cứu. Anh Miễn kể vài ngày sau khi được đưa về, lưng và vai các chiến sĩ tróc từng mảng da vì cháy nắng và ngâm nước mặn quá lâu.

Nhiều chiến sĩ không đợi được đã vĩnh viễn ra đi, trong đó có anh Tứ.

Năm 1991, chỉ có 9 gia đình được đón người thân trở về 

HẢI CHIẾN TRƯỜNG SA 1988 - KÌ 3: NHÀ TÙ TRUNG QUỐC, SAU KHI DÙNG VŨ LỰC CHIẾM GẠC MA VÀ LEN ĐAO, GIẾT HẠI 64 CHIẾN SĨ HẢI QUÂN, CHÚNG BẮT 9 CHIẾN SĨ CÒN SỐNG LÀM TÙ BINH...

Tàu đi 3 ngày đêm đến đảo Hải Nam, Trung Quốc. Cả nhóm bị bịt mắt đưa đến một nơi khác. Hơn một ngày đêm sau các anh được biết mình đang ở bệnh viện. Tất cả được đưa vào thay quần áo và cân rồi lên bàn mổ.

Sau cuộc thảm sát sáng 14/3. Lính Trung Quốc quay về tàu, và vẫn án ngữ vùng biển đảo Gạc Ma, khi ấy tàu HQ-604 đã chìm. Tàu HQ-505 cũng sắp chìm. Bên phía đảo Len Đao, tàu HQ-605 bị bắn nhưng vẫn cầm cự được đến sáng hôm sau. Các chiến sĩ Việt Nam, người tử thương, người trôi nổi trên biển.

Chiều 14/3, phía Trung Quốc cho xuồng quay lại và vớt được 9 chiến sĩ Việt Nam, trong đó có ba nhân vật Quảng Bình.

Anh Hải và Đông bị buộc dây kéo ngược lên tàu. Anh Thống bị đưa lên xuồng. Khi lên boong tàu lớn, các anh gặp 6 chiến sĩ khác. Các anh bị trói hai người một vào nhau. Anh Đông và Thống bị trói chung. Một người lẻ còn lại bị cột vào cọc sắt.

Cả 9 người lăn lóc trên cabin liên tục mấy ngày đêm, không ăn uống. Các anh liên tục kêu khát nước và xin nước, nhưng lính Trung Quốc ra hiệu không được uống. Người phiên dịch cũng giải thích các anh đang bị thương, uống nước vào có thể khiến chảy máu nhiều hơn nguy hiểm tính mạng.

Anh Thống từ khi bị đưa lên tàu Trung Quốc gần như đã không biết gì, sốt lúc nóng lúc lạnh. Anh Đông bị trói cùng thấy chân tay anh Thống đã hoại tử, bốc mùi khó chịu đã khẩn khoản xin cứu giúp. Anh Thống sau đó được đưa vào phòng khác và gần như mê man suốt dọc đường.

Tàu đi 3 ngày đêm đến đảo Hải Nam, Trung Quốc. Cả nhóm bị bịt mắt đưa đến một nơi khác. Hơn một ngày đêm sau các anh được biết mình đang ở bệnh viện.

Anh Hải và anh Đông kể các anh đều được đưa vào phòng, trói chân tay vào thành bàn. Thêm những người lính Trung Quốc khác đè đầu hoặc ngồi lên người giữ chặt để bác sĩ rạch vào gắp những mảnh pháo, đầu đạn ra, hoàn toàn không gây mê hay tê.

9 chiến sĩ khi được Trung Quốc trao trả 

hàng trên: Lê Văn Đông, Nguyễn Văn Thống, Trần Thiện Phụng, Phạm Văn Nhân, Nguyễn Tiến Hùng; hàng dưới: Trương Văn Hiền, Lê Minh Thoa, Mai Văn Hải, Dương Văn Dũng cùng vợ anh Trần Thiện Phụng và cán bộ dân phòng.

“Lúc đó tôi đã cố gắng nhịn thở để mong chết luôn, vậy mà không chết. Tôi cũng không hiểu sao mình khỏe thế. Gần 5 ngày đêm không ăn uống gì rồi lên bàn mổ, mất máu mà vẫn sống“. Anh Hải kể.

Anh Đông và nhiều anh khác cũng bị tương tự anh Hải. Anh Đông sau này còn mang được mấy mảnh đạn gắp trong người ra mang về Việt Nam làm ‘kỷ niệm’. Ở viện vài ngày, các anh được chuyển về trạm thu dung tại bán đảo Lôi Châu, Quảng Đông, Trung Quốc.

Anh Thống khi được tách ra nằm trong một phòng riêng trên tàu mê man. Khi đến Hải Nam một cô gái cho anh ăn miếng dưa và anh tỉnh lại rồi được đưa thẳng vào viện.

“Tôi được thay quần áo, uống một chút nước rồi tiêm một mũi gì đó rồi thiếp đi luôn. Khi tỉnh lại tôi thấy quanh giường mình cả chục bác sĩ. Người phiên dịch nói tôi đã ngất đi 10 tiếng đồng hồ, ai cũng nghĩ tôi đã chết. Anh ta nói bác sĩ bảo có thể phải cắt bỏ chân tay và bỏ một bên mắt tôi vì đã bị nhiễm trùng nặng, nếu không tính mạng tôi khó giữ được. Tôi một mực hoặc cứu chân tay tôi, hoặc để tôi chết. Tôi không muốn trở thành tàn phế. Các bác sĩ hội chẩn rồi quyết định để chân tay cho tôi. Sau hai tháng nằm viện, tôi xin về trạm thu dung điều trị tiếp để được ở cùng những đồng đội Việt Nam“.

Tại trạm thu dung, trong hơn một năm đầu tiên, 9 chiến sĩ bị giam biệt lập. Mỗi ngày được hai tô mì. Khoảng 1 năm rưỡi sau, một đoàn công tác của Hội Chữ thập đỏ thế giới đến thăm. Các anh được viết thư về thăm nhà và được gặp nhau hàng ngày, bữa ăn được cải thiện hơn.

Trong khi đó, ở quê hương các anh, cả 74 chiến sĩ đều được báo tin đã hy sinh và mất tích. Tin báo tử của anh Đông về đến nhà khi chị Thương đang mang thai được hai tháng, một thời gian sau khi anh đi. Chị Thương choáng váng, ốm liệt giường.

Một năm rưỡi sau, gia đình anh Đông, Thống, Hải nhận được thư từ Trung Quốc. Bao gia đình mang khấp khởi hy vọng con em mình có trong số đó. Họ đến nhà chia sẻ mừng vui với chị Thương, nhưng năm 1991, chỉ có 9 gia đình được đón người thân trở về. Trung Quốc trao trả 9 tù binh cho Việt Nam qua đường cửa khẩu Bằng Tường, từ đó các anh được đưa về quê.

4/1988 GIÀNH LẠI Len Đao-tàu chiến hải quân VN và bảy máy bay chiến đấu- không bên nào nổ súng

HẢI CHIẾN TRƯỜNG SA 1988 - KÌ 4 (HẾT): GIÀNH LẠI LEN ĐAO....

Một tháng sau, bộ đội Việt Nam đi trên tàu chiến hải quân, được trang bị súng 12ly7, DKZ… quyết giành lại Len Đao và Gạc Ma

Trở lại với sự biến ngày 14/3/1988. Trước đó, ngày 11/3, nhiều chiến sĩ Trung đoàn E83 được lệnh khẩn lên tàu. Trung đội trưởng Đinh Xuân Toại (Đơn vị C7 – D3 – E83) lẽ ra cũng lên tàu HQ-604, nhưng đến giờ cuối, anh cùng một số chiến sĩ khác được điều chuyển sang tàu không số nhỏ hơn, chuyển hướng đến đảo Tốc Tan.

Khi đang xây dựng mốc chủ quyền và nhà trên đảo này, các anh nghe tin đồng đội bên Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao bị tấn công. Cả ngày đó, cùng với lực lượng từ đảo Sinh Tồn và cụm đảo xung quanh đó, các anh đã cố gắng tiếp cận Gạc Ma tiếp cứu đồng đội, nhưng bị tàu Trung Quốc ngăn chặn nên không thể vào được.

Ngày hôm sau, khi đã đưa được những chiến sĩ thương vong về Sinh Tồn, đơn vị anh Toại được đưa về đất liền, chuẩn bị lực lượng chiến đấu.

Một tháng sau, các anh đi trên tàu chiến hải quân, được trang bị súng 12ly7, DKZ… quay lại quyết giành lại Len Đao và Gạc Ma.

“Chúng tôi có 35 lính công binh và 7 thủy binh, được Tư lệnh Vùng 4 Hải quân trực tiếp chỉ huy, ra đi với quyết tâm giành lại đảo. Trước khi đi, chúng tôi đã được chuẩn bị tư tưởng có thể xảy ra chiến sự, lực lượng của ta mỏng, trong khi Trung Quốc tàu lớn, quân đông, và họ cũng quyết liệt giành giật đảo của ta. Nhưng chúng tôi vẫn đi, quyết tử”. Anh Toại kể lại.

Từ 2h sáng, các anh bí mật cho xuồng nhỏ vào thăm dò, rồi cho người tiếp cận Len Đao và Gạc Ma. Tuy nhiên chỉ có thể cắm cờ lên đảo Len Đao, tại Gạc Ma, phía Trung Quốc đã xây nhà cấp tốc và giăng lưới điện xung quanh đảo. Các chiến sĩ không tiếp cận được.

Buổi sáng ra, tình huống trước lặp lại: Trung Quốc cho tàu áp sát uy hiếp, lần này nhiều hơn: 7 tàu chiến Trung Quốc và vô số xuồng nhỏ vây quanh uy hiếp. Hải quân Việt Nam vẫn kiên quyết bám đảo dù lực lượng của Việt Nam ít hơn rất nhiều. Hai bên liên tiếp gọi loa sang nhau khẳng định chủ quyền.

“Lúc đó không khí căng như dây đàn, cả hai bên cùng chĩa súng vào nhau, sẵn sàng nhả đạn. Chỉ huy hai bên gọi loa sang nhau nói rất nhiều bằng tiếng Trung Quốc, tôi không hiểu lắm. Nhưng sau được nghe lại là phía Trung Quốc nói đây là đảo thuộc chủ quyền của họ, yêu cầu Việt Nam tránh xa. Phía mình cũng nói lại đây là chủ quyền của nước Việt Nam và chúng tôi đang thực hiện của chủ quyền của Việt Nam. Hai bên cứ trao đổi một hồi, chúng tôi sẵn sàng chiến đấu. Được một hồi, 7 máy bay chiến đấu của Việt Nam bay từ đất liền ra quần đảo, phía tàu Trung Quốc tản ra và chúng tôi được yên ổn làm việc. Rất may hôm đó không xảy ra xung đột, không bên nào nổ súng”, anh Toại cho biết.

Trước đó, các anh đã được huấn luyện xây nhà cấp tốc trong đất liền. Một ngôi nhà kiên cố trung bình phải xây trong vài tháng, các anh được huấn luyện xây hoàn thiện trong hai tháng. Nhưng khi làm tại Len Đao, các anh phải làm nhanh hơn nữa, chỉ trong mười mấy ngày đã xây xong ngôi nhà tại đảo.

Sau khi xây xong nhà tại Len Đao, nhóm anh Toại tiếp tục di chuyển xây nhà tại đảo Đá Nam rồi gặp bão. Tàu của các anh bị xô dạt, chìm nổi trong bão 25 ngày mới quay lại được đất liền. Toàn bộ cán bộ, chiến sĩ trên tàu được Ban chỉ huy Vùng 4 Hải quân khen thưởng.

Từ 1988 đến nay, Trung Quốc chiếm giữ Gạc Ma. Việt Nam bảo vệ thành công Cô Lin và Len Đao.

Cựu binh Gạc Ma kể chuyện lao tù Trung Quốc

https://tienphong.vn/cuu-binh-gac-ma-ke-chuyen-lao-tu-trung-quoc-post700140.tpo

Sau khi nổ súng cưỡng chiếm đảo Gạc Ma và bắn chìm tàu HQ 406 vào ngày 14/3/1988, quân đội Trung Quốc đã bắt giữ nhiều chiến sỹ của ta sống sót trôi dạt trên biển làm tù binh, giam giữ hơn 3 năm ở bán đảo  Lôi Châu để tra hỏi.

Phù thũng vì đói ăn

Đã hơn 20 năm trôi qua nhưng cựu binh Lê Văn Đông ở thôn Rẫy, xã Tây Trạch, huyện Bố Trạch (Quảng Bình) vẫn nhớ như in trận hải chiến không cân sức giữa ta và địch trên vùng biển Trường Sa của Việt Nam.

Đầu năm 1988, anh Đông cùng hơn 300 người con Quảng Bình tình nguyện vào Hải Quân, lên tàu ra Trường Sa xây dựng và bảo vệ biển đảo Tổ quốc. Sau một thời gian quấy nhiễu, gây hấn, rạng sáng ngày 14/3/1988, Hải quân Trung Quốc bất ngờ nổ súng chiếm đảo Gạc Ma và bắn chìm tàu HQ 406. 

“Chủ trương của ta lúc đó là ra xây dựng các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao... nên tàu HQ 406 chở toàn lính công binh và đương nhiên không được trang bị vũ khí, hỏa lực tác chiến. Sau loạt đạn xối xả từ tàu Hải quân Trung Quốc, tàu HQ 406 bốc cháy và từ từ chìm xuống biển. Lúc đó trên tàu HQ 406 có chừng 120 chiến sỹ, nhiều người trúng đạn, còn tôi nhanh tay vơ vội được tấm ván trôi dạt trên biển, đến chiều thì bị tàu Trung Quốc phát hiện, bắt làm tù binh” - anh Đông nhớ lại.

Anh Đông bị trói gô đưa lên tàu chiến của Trung Quốc. Tại đây, anh nhận ra hai người đồng hương là anh Mai Xuân Hải ở xã Liên Trạch, huyện Bố Trạch; Nguyễn Văn Thống ở xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch cùng sáu đồng đội ở những địa phương khác cũng đang bị trói gô trên tàu. Sau gần một ngày trôi dạt trên biển, đói và khát nhưng phía Trung Quốc không cho ăn uống mà chỉ cho một ít nước để mọi người cầm hơi. “Nước đựng trong một cái cốc thủy tinh rất to nhưng chỉ tráng ở đáy. Chín anh em chúng tôi, chia nhau để đủ thấm vào môi cho đỡ khát” - anh Đông nhớ lại.

Mặc dù không được nhanh nhẹn, cường tráng như xưa, hậu quả sau những ngày tháng bị cầm tù ở Trung Quốc, nhưng anh Mai Xuân Hải vẫn nhận ra mình trong video trên mạng mà phía Trung Quốc công bố sau cuộc chiến Gạc Ma. Anh Hải đã ồ lên bất ngờ “đây đây... tui đây”, khi chúng tôi cho anh xem một đoạn video có người lính Việt Nam, chỉ độc chiếc áo may ô trên người, bị trói gô ngồi thu lu trên boong tàu.

Gia đình của những người lính bị Trung Quốc bắt giữ đều nhận được giấy báo tử từ đơn vị

“Tui đang bơi, thì phát hiện thấy tàu Trung Quốc tiến đến. Tui cố lặn ngụp để tránh bị chúng phát hiện, nhưng giữa mênh mông biển nước không biết trốn vào đâu. Chúng áp sát tàu, quăng dây, yêu cầu tôi níu vào dây để chúng kéo lên. Vừa bám vào được mạn tàu, một tốp lính Trung Quốc xúm lại, xách tui lên tàu, đè ngã ra trói quặt tay sau lưng. Người tui lúc đó đầy vết đạn, máu chảy khắp người, nhưng chúng không cho quần để mặc mà đấm đá túi bụi, rồi áp giải đến một góc riêng, lấy dây xích chân lại, không cho ngồi chung với đồng đội” - anh Hải kể.

Sau ba ngày, ba đêm, tàu Trung Quốc mới đưa các tù binh bắt được về giam cầm ở bán đảo Lôi Châu. “May khi về đến bến cảng của Trung Quốc thì xuất hiện người của Chữ Thập Đỏ can thiệp nên chúng tôi không bị đánh đập nữa. Chúng nhốt chúng tôi biệt lập mỗi người một phòng trong căn nhà tầng hai. Hai tháng đầu tiên cứ đến sáng, chiều là chúng dựng dậy hỏi cung: Ai chỉ huy, quân số bao nhiêu, vũ khí loại gì... Chúng tôi đều nói không biết. Là người lính, chúng tôi chỉ biết nhiệm vụ được giao là xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo” - anh Đông kể.

Không khai thác được gì từ những người lính kiên cường của Việt Nam, phía Trung Quốc mở chiến dịch tuyên truyền bẩn thỉu. Họ nói với những người lính Việt Nam, quần đảo Trường Sa là của Trung Quốc, do Việt Nam xâm chiếm nên họ mới đánh. Chừng một năm rưỡi giam cầm trong phòng kín, lính canh mới mở cửa phòng giam để mọi người ra ngoài hành lang tắm nắng. Đồng đội nhìn thấy nhau, ai cũng xanh lét, phù thủng. Mừng mừng, tủi tủi định hỏi chuyện nhau thì bị lính canh ngăn lại, cấm không cho tiếp xúc. “Mỗi bữa ăn là miếng bánh mì, một ít cơm, thêm ít nước gạo nhưng nhạt lắm, không có tí muối nào. Suốt mấy năm ăn nhạt thế, thêm thiếu ánh sáng nên anh em ai cũng bị phù thủng. May mà anh em không ai khuỵu ngã, vẫn đủ chín người cho đến khi được trao trả về Việt Nam theo đường ngoại giao” - anh Hải nói. Cần chuẩn bị tâm thế cho những cuộc nổ súng bất ngờ

Đúng 3 năm, 5 tháng, 15 ngày, đến đầu năm 1991 những người lính ra đảo Gạc Ma của chúng ta bị Trung Quốc bắt giữ mới được trao trả về Việt Nam. Họ trở về quê hương trong sự ngỡ ngàng, mừng, tủi của gia đình, làng xóm. Bởi trước đó, gia đình họ đã nhận được giấy báo tử từ đơn vị và ngay cả tấm bia ghi danh các anh hùng liệt sỹ Gạc Ma ở quân cảng Cam Ranh cũng có tên của họ.

Trở về sau cuộc chiến, những người lính Gạc Ma bị cuốn vào cuộc mưu sinh trên miền quê cát trắng gió Lào. Mỗi nhà mỗi cảnh, nhưng đa phần họ đều có cuộc sống khó khăn, đặc biệt là những người lính từng bị giam cầm trong nhà tù Trung Quốc. Sức khỏe bị giảm sút, cuộc mưu sinh của họ càng bội phần chật vật. Như anh Mai Xuân Hải bị viêm phổi mãn tính do phải sống trong môi trường ẩm thấp của nhà tù. Đã 50 tuổi đời, nhưng anh vẫn chưa thể làm nổi ngôi nhà cho vợ con an cư cùng làng xóm. Mãi đến năm ngoái, các nhà hảo tâm đã quyên góp giúp anh xây nhà, nhưng ngôi nhà mới vẫn thiếu thốn trăm bề.

Mặc dù cuộc sống mưu sinh vẫn đè nặng lên đôi vai những cựu binh Gạc Ma ngày ấy, nhưng kể từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 và quấy nhiễu trong vùng biển chủ quyền của Việt Nam, tinh thần quả cảm của những người lính Gạc Ma năm xưa như được hâm nóng. Chị Đinh Thị Diện, vợ của cựu binh Mai Xuân Hải cho biết: “Từ bữa ngoài Hoàng Sa có chuyện đến giờ không buổi thời sự nào trên ti vi mà anh ấy không chăm chú ngồi xem. Dù có đi làm trên rẫy, xa mấy cũng chạy về xem cho được thời sự. Tui thì đàn bà, con gái không hiểu chi lắm về mấy chuyện chiến tranh, nhưng thấy anh ấy lo lắng đến mất ăn mất ngủ nên cũng lo theo”.

Tiếp lời vợ, anh Hải nói: “Tui xem ti vi mà thấy lo quá! Họ ỷ mạnh hiếp yếu và chưa bao giờ thôi tham vọng bá chủ biển Đông. Việc họ đặt giàn khoan chỉ là cái cớ, nhìn cánh thức họ hành xử trên biển với ta, tui đồ rằng họ rất dễ manh động đơn phương khai chiến như hồi trận Gạc Ma. Tui mong Nhà nước ta cố gắng bằng con đường ngoại giao nhằm tránh xung đột, nhưng đồng thời cũng phải chuẩn bị tâm thế cho những cuộc nổ súng bất ngờ từ phía Trung Quốc”.

Cùng quan điểm với anh Hải, anh Đông cho rằng Trung Quốc đang tạo cớ để đánh chiếm biển Đông, hoặc chí ít sẽ biến vùng không tranh chấp thành vùng có tranh chấp nhằm thực hiện mưu đồ độc chiếm biển Đông theo thuyết “đường lưỡi bò”. 

Đành rằng chúng ta chính nghĩa trong bảo vệ chủ quyền, chúng ta không gây hấn, nhưng cũng phải hết sức cảnh giác trước những âm mưu thâm độc của Trung Quốc. “Tui xem ti vi thấy Trung Quốc đã đưa tàu chiến và máy bay chiến đấu ra vùng hạ đặt giàn khoan trái phép. Đừng nghĩ họ chỉ dọa, mà phải tính đến chuyện họ sẽ làm thật, nếu không sẽ xảy ra một cuộc thảm sát như hồi Gạc Ma” - anh Đông nhận định. 

Ký ức về cha

25 năm sau, sáng 8-3-2013, trong ngôi nhà tưởng niệm người cha anh hùng của mình ở Thái Bình, khi nhìn thấy những dòng chữ trong lá thư của 25 năm trước, chị Thu Hà (hiện công tác tại Công an tỉnh Hà Nam) lặng đi. Những giọt nước mắt lăn dài trên gương mặt người phụ nữ luôn tỏ ra cứng cỏi, mạnh mẽ. “Cả nhà tôi không ai nghĩ bố hi sinh. Vì năm ngày sau sự kiện 14-3-1988, mẹ con tôi còn nhận được 50kg gạo và 140.000 đồng tiêu chuẩn của bố gửi mấy chú Lữ đoàn 147 mang ra. Tối hôm sau (20-3), tôi đang học bài nhưng bỗng rất sốt ruột, nhớ bố quá nên viết thư. Tôi không ngờ đó là lá thư cuối cùng mình được viết cho bố. Và bố không bao giờ nhận được lá thư ấy...”, chị Thu Hà nhớ lại.

“Ngày 26-3-1988, lúc nghe đài nhắc tới: đồng chí Trần Đức Thông đứng ở boong tàu kêu gọi đàm phán. Bên kia cứ xả súng vào... Mặc dù bị thương nặng nhưng đồng chí vẫn không rời vị trí cho đến lúc hi sinh, cả nhà tôi mới tin bố đã hi sinh thật rồi. Sau này nghe đồng đội của bố kể: dù bị thương nặng vào chân và đầu nhưng bố vẫn ở mũi tàu chỉ huy bộ đội cho đến lúc hi sinh”, chị Hà kể. Khi ấy Thu Hà 18 tuổi, còn em trai Trần Hoài Nam mới 14 tuổi.

Ký ức về cha

“Ngày đó, lính đảo 18 tháng mới được về phép một lần. Mỗi lần đi đảo, bố để dành thịt hộp, lương khô mang về cho con. Lần nào về cũng mang những con ốc rất to, những cây san hô, những con tôm, con cá màu xanh màu đỏ được tết từ dây cáp điện thông tin... làm quà cho các con. Bây giờ tôi vẫn còn giữ những kỷ vật ấy. Lần nào về bố cũng mua từng cái quần, cái áo cho con. Bộ quần áo cuối cùng của tôi là tiêu chuẩn của đơn vị cho bố đi may, bố mang về cho con gái may quần đi học. Mỗi lần nhìn cái quần màu xanh hải quân ấy, tôi lại chảy nước mắt vì nhớ và thương bố. Mỗi lần về phép, bố chỉ thích ăn rau vì đi đảo thiếu rau vô cùng tận. Su hào, bắp cải, xà lách luộc là những món bố rất thích ăn”, Thu Hà chảy nước mắt khi nhớ lại.

Trong đợt về phép cuối cùng (gần tết năm 1988), như linh cảm trước chuyến đi định mệnh, trung tá Thông lên trường gặp thầy chủ nhiệm xin được miễn quân sự cho con gái một tuần. Người cha đạp xe chở con từ thị xã Phủ Lý (Hà Nam Ninh) về quê (Minh Hòa, Hưng Hà, Thái Bình), đến từng nhà người bạn học, người hàng xóm chơi. “Tôi còn nhớ lần đó bố còn 15 ngày phép. Nhận được điện ở đơn vị vào Nha Trang gấp, bố đi ngay. Trước khi đi, bố bảo: mai tôi trả phép rồi, tôi gánh kỷ niệm cho con gái một bể nước. Đêm đó bố xuống sông gánh nước đầy một bể cho vợ con”, Thu Hà nhớ lại.

đại tá Phạm Công Phán - là lữ đoàn trưởng:  "Đợt đó ta tăng cường bảo vệ và xây dựng cơ sở trên các đảo chìm, tôi theo mũi đi Đá Lát, Thông theo mũi đi Gạc Ma. Sáng 14-3, khi tôi đang cùng lính của mình vác cọc bê tông dựng nhà "cao cẳng" để đóng giữ đảo chìm Đá Lát thì nhận tin Trung Quốc cưỡng chiếm Gạc Ma.

Lữ phó Thông nhỏ hơn tôi một tuổi (anh hùng Trần Đức Thông sinh năm 1944), cũng là người đồng hương Thái Bình của tôi".

Những  nhà lãnh đạo đứng đầu thời điểm 1988 này là ông Lê Đức Anh, ông Nông Đức Mạnh.

Sau trận Hải chiến Trường Sa tháng 3/1988, tình hình tại quần đảo Trường Sa vô cùng căng thẳng. Để tổ chức chiến đấu, phòng thủ, nhiều km công sự đã được đào. Trong ảnh là bộ đội đào công sự trên đảo Trường Sa lớn. 

Đảo Trường Sa Lớn nằm ở 8038’41” độ vĩ Bắc, 111055’12” độ kinh Đông, là đảo lớn nhất trong cụm đảo Trường Sa.

Ngày nay, tại các đảo chìm thuộc Quần đảo Trường Sa, bên cạnh những ngôi nhà kiên cố được Quân đội đầu tư xây dựng, còn có những ngôi nhà văn hóa đa năng. So với đảo nổi, cuộc sống ở các đảo chìm thuộc Quần đảo Trường Sa khó khăn và gian khổ gấp nhiều lần. 

14-3-1988 Gac ma island battle field vs China-bữa giỗ Gạc Ma

64 đôi đũa, 64 cái bát trong bữa giỗ Gạc Ma

https://tuoitre.vn/bua-gio-gac-ma-1062850.htm

07/03/2016-QUỐC NAM

Ngồi nơi bậc cửa nhìn về phía biển xa với khóe mắt ươn ướt. “Hôm nay là lần giỗ thứ 27 của các con tui tại đảo Gạc Ma rồi. Tui mần mâm cơm tưởng nhớ...” - cụ ngậm ngùi.

Trưa 6-3, nhà của cụ ông Hoàng Dỏ ở thôn Tân Định, xã Hải Ninh (huyện Quảng Ninh, Quảng Bình) đông hơn bình thường. Một chiếc bàn vuông cạnh khá lớn được bày ra nơi góc sân.

Cụ Dỏ đã bước qua tuổi 88, và gọi tất cả 63 liệt sĩ cùng hi sinh với con mình tại Gạc Ma là con. Con trai cụ là liệt sĩ Hoàng Văn Túy.

64 đôi đũa, 64 cái bát

Tấm ảnh thờ liệt sĩ Túy được đặt ở bàn thờ trong gian giữa của ngôi nhà. Nhưng mâm cúng giỗ theo truyền thống được đặt ra giữa sân. Chiếc bàn gỗ khá to được lần lượt đặt lên đủ thứ hoa quả, giấy tiền vàng mã theo nghi lễ truyền thống.

Gần trưa, khi nhà bếp chuẩn bị xong mâm cơm cũng là lúc con cháu trong nhà được cụ Dỏ huy động để bưng ra đặt lên bàn làm lễ. Anh Hoàng Văn Nhân, cháu nội cụ Dỏ, là người được cử đi bưng bát đũa. Việc bưng bát đũa được xem là việc rất quan trọng của bữa giỗ này.

“Nhớ bưng đủ sáu chồng bát nhé. Thiếu cái nào là có tội với liệt sĩ cái đó nghe con” - cụ Dỏ vẫn ngồi nơi bậc cửa nhắc nhở.

Chiếc bàn gỗ chỉ hơn một mét chiều ngang lần lượt được anh Nhân chồng lên đủ sáu chồng bát. Xong việc, anh cẩn thận đếm từng đôi đũa để sắp xen kẽ theo những chồng bát trên bàn.

Đếm kỹ trên bàn, có đúng 64 cái bát và 64 đôi đũa. Khi đặt đủ bát đũa, người nhà cụ Dỏ mới lần lượt bưng thức ăn lên bàn.

Cụ Dỏ nói đã ba năm nay cụ đều đặt đủ 64 bộ bát đũa lên bàn cúng mỗi khi làm giỗ cho liệt sĩ Túy như thế. Mọi chuyện bắt đầu từ năm 2012. Cuối năm đó, cụ được hai đơn vị về thăm tại nhà vì là thân nhân liệt sĩ Gạc Ma.

Trong hai chuyến thăm này, một đơn vị là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tặng cụ 20 triệu đồng và Tập đoàn Cao su Việt Nam tặng cụ 10 triệu đồng.

Cụ Dỏ khi còn trẻ làm nghề biển nhưng không có tàu để đi mà chủ yếu đi bạn cho những chủ tàu ở xã Bảo Ninh gần đó. Cả làng này đều theo nghề bạn thuyền nên nghèo lắm. Vì vậy số tiền được cho khi đó là ngoài sức tưởng tượng của cụ.

“Cầm ba chục triệu, tui cứ lấn cấn trong bụng. Người ta cho vì con mình hi sinh để bảo vệ biển đảo của đất nước. Nhưng không phải chỉ có con mình hi sinh mà còn 63 người khác nữa. Không biết gia đình họ có được quan tâm như mình không?” - cụ Dỏ nhớ lại.

Sau Tết Nguyên đán năm 2013, gia đình cụ như mọi năm lại chuẩn bị cho ngày giỗ của liệt sĩ Túy vào cuối tháng giêng. Và cụ quyết định dùng số tiền đó để làm một ngày giỗ chung cho tất cả 64 liệt sĩ.

Liệt sĩ Túy là con thứ tư của cụ Dỏ. Hiện tại cụ sống cùng gia đình con trai út là Hoàng Văn Vũ. Anh Vũ cũng làm nghề đi biển cho những tàu lớn trong vùng.

Cuộc sống khó khăn khiến gia đình anh không thể kham nổi một bữa giỗ lớn như năm 2013 nữa. Tuy nhiên đến bữa giỗ của liệt sĩ Túy hai năm sau đó, anh Vũ vẫn làm được mâm cơm tưởng nhớ ngày mất của liệt sĩ Túy đặt giữa sân.

Mâm cơm chỉ có vài quả trứng, chén xôi, đĩa trái cây nhưng xung quanh vẫn có đủ 64 cái bát và 64 đôi đũa.

“Khi tui nghèo thì làm giỗ theo kiểu nghèo. Mình có gì thì mình mời cái đó. Chỉ cần các liệt sĩ biết cái tình của gia đình tui rứa là được” - anh Vũ tâm sự.

Hướng về phía biển

Đúng 11g trưa, cụ Dỏ mới lọm khọm ra bàn cúng giữa sân để thắp hương. Mắt cụ đã mờ, chân cụ đã yếu và lưng đã còng nên cụ bước đi khá khó nhọc.

Cụ lấy thìa múc từng thìa cháo trắng đổ lần lượt vào các chồng bát đã sắp sẵn rồi rơm rớm mắt nhìn về phía biển đọc lời khấn: “Hôm nay là tròn 27 năm các con nằm lại giữa biển khơi vì chống lại bọn bành trướng Trung Quốc. Các con đã hi sinh vì bảo vệ từng tấc đất của quê hương. Bọ (ba) không có chi hơn, chỉ có ba chén rượu lạt và nén hương thơm thắp lên đây mời các con cùng về dự...”.

Nói tới chừng đó, cụ Dỏ bật khóc. Tay cụ cầm nén hương run run như muốn rớt. Mọi người phải đỡ cụ vào nhà để nghỉ ngơi sau đó.

Anh Vũ nói dù sức khỏe đã yếu lắm nhưng năm nào cụ Dỏ cũng muốn được tự tay thắp cho con nén hương cũng như nhắn với con những lời tâm sự như thế. Và năm nào cụ cũng khóc.

Anh Túy nhập ngũ năm 1985. Trước khi hi sinh anh Túy được về ăn tết với gia đình hai ngày. Anh Túy nói với cụ Dỏ rằng chỉ khoảng ba tháng nữa là sẽ được ra quân. Nhưng chỉ chưa đầy một tháng sau anh hi sinh tại Gạc Ma khi cùng đồng đội bảo vệ đảo trước quân Trung Quốc xâm lược.

Nhà cụ Dỏ nằm cách bờ biển chỉ vài chục mét. Và mâm cúng giữa sân cũng được cụ Dỏ bảo con cháu đặt xoay về hướng đó, dù theo thông lệ người ta thường đặt bàn cúng theo hướng tây nam.

Anh Vũ kể rằng chỉ khi đặt bàn giỗ cho anh Túy và những liệt sĩ Gạc Ma, cụ Dỏ mới bắt con cháu đặt bàn theo hướng đông như thế. Những ngày giỗ khác trong nhà, kể cả giỗ của mẹ anh, cụ Dỏ đều đặt lại hướng tây nam như thường.

Hai năm sau ngày anh Túy hi sinh cùng 63 liệt sĩ Gạc Ma, cụ Dỏ cứ chiều nào cũng đi ra bờ biển đầu làng nhìn về hướng đó.

Có lần anh thắc mắc về chuyện đặt bàn cúng, cụ Dỏ nói: “Các con đều đang nằm lại giữa biển khơi. Đặt bàn cũng như đặt tâm trí của mình rứa, luôn hướng về phía các con nằm để thêm gần gũi”.

Truyền thống của vùng quê này, người ta chỉ làm giỗ theo ngày âm lịch và thường làm giỗ sau một ngày so với ngày mất. Nên dù ngày liệt sĩ Túy cùng những người lính khác hi sinh tại Gạc Ma là 14-3-1988, nhằm ngày 27-1 âm lịch, nhưng cụ Dỏ làm giỗ cho con ngày 28-1.

Ba năm nay, cứ đến ngày này, cụ Dỏ làm bữa giỗ cho con và làm giỗ chung luôn cho tất cả 64 liệt sĩ trong trận hải chiến không cân sức đó.

Vì theo cụ: “Mấy anh em nó sống cùng nhau, chết cùng nhau. Biết đâu khi chết mấy anh em đang bấu chặt lấy nhau dưới biển đó...”.